1.- CON RÙA VÀ LỊCH SỬ
Ðối với người
Á đông, rùa được kể là một trong tứ linh "long, lân, quy,
phụng". Từ thời Tam hoàng Ngũ đế trong lịch sử cổ đại
Trung hoa, vua Phục hy nhờ tìm thấy dấu vết trên mu rùa mà
thiết lập ra quẻ Dịch gọi là Hà đồ, hay còn gọi là Tiên
thiên Dịch, mở đầu cho khoa Dịch học, được xem như một
môn học về vũ trụ quan của người Trung hoa. Người đời
sau lại đem Dịch ứng dụng vào khoa bói toán cho nên các thầy
bói toán vẫn dùng cái mu rùa như là một vật linh thiêng giúp
cho mình chiêm nghiệm.
Cổ sử Trung hoa
cũng có chép rằng vào đời vua Nghiêu và vua Thành vương nhà
Chu, (khoảng hơn 11 thế kỷ trước công nguyên) khi nước Văn
lang còn trong thời đại Hùng vương, cũng đã có sứ Việt
thường, một xứ ở phương nam đất Giao chỉ, sang cống hiến
rùa và chim bạch trĩ, và vua Tàu đã phải ra lệnh cho ông
Chu công Ðán chế ra xe chỉ nam để giúp đưa sứ giả của
Việt thường quay trở về nước. Như vậy rùa vẫn được
kể như một đặc sản qúy.
Trong lịch sử
Việt nam, Rùa cũng đã có nhiều lần xuất hiện như một
vị thần cứu tinh cho dân tộc. Vào cuối đời Hùng Vương,
vua Hùng thứ 18 cậy mình có binh cường tướng giỏi nên bỏ
bê việc nước.Thục Phán bèn đem quân đánh chiếm Văn lang.
Vua Hùng thua chạy phải nhảy xuống giếng tự tử. Thục Phán
lên ngôi, xưng là An dương vương, cải tên nước là Âu lạc,
đóng đô ở Phong khê và cho xây Loa thành, hiện vẫn còn dấu
vết ở làng Cổ loa.
Tục truyền rằng
khi An Dương vương cho xây Loa thành, bị yêu quái quấy nhiễu
nên cứ ban ngày xây lên thì ban đêm lại bị phá đi khiến
cho xây mãi không xong. Sau nhờ có thần Kim quy hiện lên chỉ
cho cách trừ yêu quái nên công trình mới có thể hoàn tất.
Thần Kim Quy lại còn gỡ một cái móng của mình cho An Dương
Vương để làm cái lẫy nỏ khiến cho chiếc nỏ hóa thành
linh hiệu như thần, chỉ cần bắn một mũi tên có thể sát
hại hàng vạn quân địch, nhờ đó mà địch quân không thể
nào chiếm được thành.
Triệu Ðà là
quan úy quận Nam hải của nhà Tần, muốn thôn tính nước
Âu lạc, đã nhiều lần đem quân sang đánh An dương vương
nhưng đều thất bại. Triệu đà mới dùng mưu cho con là Trọng
Thỉ kết hôn với Mỵ Châu là con gái của An dương vương
để dò thám. Mỵ Châu vì quá tin chồng nên đã kể cho Trọng
Thỉ nghe chuyện thần Kim quy cho cái móng để làm lẫy chiếc
nỏ thần. Sau khi biết đuợc điều bí mật này, Trọng Thỉ
bèn tìm cách lén đánh tráo cái lẫy nỏ rồi trốn về nước
trình bày mọi chuyện với cha mình. Triệu Ðà bèn khởi binh
qua đánh. An dương vương cậy có nỏ thần nên không còn lo
phòng bị. Lúc địch quân đã tiến đến sát thành, An dương
vương mới lấy nỏ thần ra bắn, nhưng nỏ không còn linh
nghiệm nữa.
An dương vương
thua bèn dẫn theo Mỵ Châu phóng lên ngựa bỏ chạy. Khi ra
đến bờ bể thì cùng đường, An dương vương bèn khấn thần
Kim quy lên cứu. Thần Kim quy xuất hiện cho biết giặc chính
là kẻ đang ngồi sau lưng nhà vua. An dương vương tức giận
quá và không còn biết chạy thoát về đâu bèn rút gươm chém
Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển tự vẫn.
Cũng theo tục
truyền thì khi Lê Lợi khởi nghĩa chống quân Minh cũng được
thần Kim quy ban cho thanh kiếm để trừ gian khử bạo. Lúc
đại sự đã thành và Lê Lợi đã lên ngôi báu, một hôm
nhà vua dạo chơi thuyền trên hồ ở kinh thành Thăng long thì
thấy một con rùa vàng nổi lên tiến lại sát thuyền rồng.
Nhà vua liền dùng thanh kiếm báu của mình để gạt rùa ra
xa thì rùa liền ngậm lấy thanh kiếm và lặn mất. Do sự
kiện này mà nhà vua cho rằng thần Kim quy đã hiện lên để
đòi lại kiếm cho nên mới đổi tên hồ đó là hồ Hoàn
kiếm. Về sau hồ này còn được gọi theo cách nôm na là hồ
Gươm và ngôi tháp do vua Lê Thái tổ cho lập lên trên hòn
đảo nhỏ giữa hồ để ghi công đức của Thần Kim quy được
gọi là Tháp Rùa.
Sau khi đất nước
bị qua phân theo Hiệp định Geneve 1954, miền Nam thành lập
nền Ðệ nhất cộng hòa, Tổng thống Ngô đình Diệm muốn
khôi phục lại những giá trị của nền văn hóa truyền thống
đã bị người cộng sản phá bỏ nên đã đề cao nhiều biểu
tượng cổ truyền, thí dụ như Bụi trúc đã được chọn
làm quốc huy có ý nghĩa " tiết trực tâm hư" (lóng thẳng
mà lòng thì rỗng, nói lên cái khí tiết của người quân
tử lúc nào cũng ngay thẳng và lòng thì không tham.) Ðể phổ
biến đường lối trên, Nha Bưu chính Việt nam Cộng hòa cũng
đã cho phát hành nhiều loại tem thư mang hình ảnh các biểu
tượng của nền văn hoá cổ truyền như tem Bụi Trúc, tem
Con Rồng, tem Chim Phượng, hoặc tem Con Rùa mang trên lưng cái
Quốc ấn v.v...
Sau khi cuộc chiến
tranh Quốc cộng tái phát, để tri ân các quốc gia đồng minh
đã giúp đỡ Việt nam Cộng hoà trong cuộc chiến đấu chống
lại Cộng sản, chính phủ cũng đã cho thiết lập một đài
tưởng niệm tại thủ đô Sài gòn, ngay bùng binh giao điểm
của các đường Duy tân và Trần qúy Cáp với mẫu thiết
kế gần giống như một con rùa nổi lên giữa hồ nước,
mang trên lưng tấm bia tri ân và ngọn tháp đuốc như một
sự tượng trưng về lòng biết ơn của dân tộc Việt nam
đối với thế giới tự do. Dân chúng Sài gòn về sau vẫn
quen gọi đó là hồ Con Rùa.
Dựa vào các huyền
thoại về An dương vương và Lê Lợi, Rùa chính là một vị
thần linh vẫn từng cứu giúp và phù trì cho dân tộc Việt
nam trong việc chống xâm lăng. Nhưng sự giúp đỡ của Thần
chỉ nhằm trong một phạm vi có giới hạn, cho nên khi An dương
vương vì thiếu thận trọng để bị đánh tráo mất cái nỏ
thần đến nỗi phải mất nước thì thần cũng không còn
cứu ứng. Còn trong lần vua Lê vì đại nghĩa chống xâm lăng
mà được thần ban cho thanh kiếm thì khi đại sự đã hoàn
thành, thần cũng không quên đòi lại vật mà thần đã giúp
cho mượn.
2.- HÌNH ẢNH CON RÙA QUA CON MẮT DÂN GIAN
Tuy cũng là một
trong tứ linh nhưng rồng, kỳ lân là những biểu tượng cao
qúy và tốt đẹp, được dùng để tượng trưng quyền uy
của vua chúa; người ta cũng thường chạm trổ hình rồng
hoặc lân trên các công trình kiến trúc hay mỹ thuật để
làm tăng thêm vẻ thẩm mỹ; ngoài ra, người ta còn bắt chước
nét đẹp uy nghi hùng tráng của rồng và lân để biểu diễn
trong các cuộc múa rước những khi có hội hè đình đám;
còn chim phụng thì được vẽ thành tranh, thêu lên gối lên
màn để diễn tả tình âu yếm thủy chung; chỉ riêng có rùa
là có vẻ lận đận, thường được coi như là cái đế của
một vật khác đặt tại những nơi cô tịch như đình chùa
lăng miếu. Có lẽ vì thế mà trong ca dao rùa mới được mô
tả như là con vật mang một thân phận đáng buồn:
Thương thay thân phận con rùa
Lên đình hạc cưỡi, xuống chùa đội bia
Ðây không phải
là một lời ta thán mơ hồ mà bằng vào sự kiện cụ thể
mắt thấy. Thật vậy, bất cứ ai nhìn vào trong các ngôi đình
làng cũng có thể nhận thấy trên bàn thờ thường có những
cái chân đèn để cắm nến có hình dáng con chim hạc đậu
trên lưng con rùa. Còn ở nơi nào có thiết lập những tấm
bia đá lưu niệm thì tấm bia ấy lại gắn liền trên lưng
con rùa làm bệ đá bên dưới. Như vậy là rùa hầu như lúc
nào cũng phải mang nặng trên lưng.
Trong kho tàng văn
học dân gian cũng có nhiều sự tích về rùa. Một câu truyện
có tính chất hài hước nhằm giải thích về những lằn nét
trên mu rùa kể rằng, vào cái thời xa xưa, lúc mà các loài
vật đều biết nói, có một lần chuột gặp rùa bèn mời
rùa đến nhà mình chơi. Chuột nhanh nhẹn, leo trèo giỏi, còn
rùa thường bơi lặn dưới nước, nhưng lúc ở cạn thì với
cái thân nặng nề, rùa chỉ có thể bò chậm chạp trên mặt
đất mà thôi. Vì nhà chuột thì ở mãi trên ngọn cây cau
thẳng đứng, cho nên chuột mới bảo rùa hãy cắn chặt vào
đuôi của chuột để chuột leo lên cây kéo rùa lên theo. Chuột
còn sợ rùa sơ ý mở miệng nói mà bị té rơi xuống nên
đã căn dặn rùa trong khi chưa vào nhà ngồi yên vị thì chưa
được mở miệng.
Khi chuột kéo
rùa bò lên gần ngọn cau thì vợ chuột ở trong nhà nhìn ra
thấy chồng đang đèo thêm khách đến liền vội vàng chạy
ra khỏi tổ chúi đầu xuống đon đả chào hỏi. Rùa thật
thà mở miệng ra đáp lễ thì tuột khỏi đuôi chuột và rớt
xuống. Nhờ có cái mu dày và cứng nên tuy rơi từ cao xuống
rùa không đến nỗi bị thương chết, nhưng mu rùa thì lại
bị rạn nứt tứ tung thành nhiều mảng. Từ đó về sau, con
cháu rùa đều thừa hưởng cái vết sẹo di truyền này trên
mu như là chứng tích của một tai nạn từ tổ tiên để lại.
Vì rùa rất chậm chạp, nhất là những lúc ở trên cạn mà bị lật ngửa thì
lại càng vụng về lúng túng nên dân gian mới có các thành
ngữ "Chậm như rùa," hoặc "Rùa lật ngửa." Tuy nhiên cũng
có một câu truyện khác lại nói về rùa như là một loài
thông minh, biết dùng mưu trí để bù đắp cho cái yếu kém
của mình như câu truyện rùa thi với thỏ sau đây.
Có một lần thỏ
ở trên bờ nhìn thấy rùa bơi chậm rãi dưới sông liền
chê rùa chậm chạp. Rùa bèn thách thỏ cùng thi với mình.
Thỏ sẽ chạy dọc bờ sông còn rùa bơi theo giòng nước.
Vốn là loài chạy nhanh nên thỏ rất tự tin ở mình. Còn
rùa cũng biết rằng mình không thể nào bơi nhanh bằng tài
chạy của thỏ nên sau khi ước hẹn với thỏ xong, rùa liền
ngầm bảo nhau khi mà cuộc thi bắt đầu thì tất cả rùa
ở dưới sông phải sẵn sàng, hễ chặng nào nghe tiếng thỏ
thì rùa có mặt ở khúc sông phía trước đó sẽ trồi lên
mặt nước cho thỏ thấy. Sau đó thì cuộc thi bắt đầu.
Thỏ tung tăng nhảy nhót được một quãng bèn nhìn xuống
sông lên tiếng hỏi thì nghe thấy rùa lên tiếng đã có mặt
ở phía trước. Thỏ vội vàng chạy tiếp, nhưng cứ mỗi
lần thỏ nhìn xuống sông để tìm xem rùa đã tới đâu thì
lúc nào cũng thấy rùa ở phía trước mình rồi. Cuối cùng
thỏ đuối sức đành phải chịu thua.
Truyện ngụ ngôn
Tây phương cũng có một mẩu chuyện thi chạy giữa rùa và
thỏ mà kết quả cũng là rùa thắng thỏ. Nhưng con rùa trong
ngụ ngôn Tây phương không phải dùng mưu kế để lừa gạt
thỏ mà chỉ bằng vào sự thẳng thắn, biết nhận định
cái chậm chạp của mình nên đã lặng lẽ cố gắng bò thẳng
tới đích. Còn thỏ sợ dĩ thua chẳng qua vì quá tự tin và
coi thường rùa nên mới nhởn nhơ vui chơi, đến lúc chợt
nhớ lại cuộc thi để quay chạy về đích thì đã quá trễ
vì rùa đã bò tới nơi rồi.
Tuy hai câu chuyện
đều cùng chung một chủ đề, nhưng các diễn tiến trong mỗi
câu truyện lại bộc lộ cho thấy hai cách nhìn sự vật khác
nhau : người Việt nam thích suy luận theo liên tưởng hiện
tượng và hay nghĩ đến sự liên đới về trách nhiệm, trái
lại người Tây phương thường đặt căn bản trên cá nhân
và giải thích vấn đề theo duy lý.
Người ta vẫn
tin rằng Rùa sống lâu, không tấn công vật khác, tuy nhiên
rùa đã cắn thì không nhả. Ngoài ra theo tâm lý dị đoan của
người bình dân, rùa còn bị gán cho cái tiếng xui xẻo và
nếu ai ăn thịt rùa sẽ gặp điều bất tường, mặc dù mu
rùa thì lại vẫn được người ta dùng để nấu thành một
thứ cao thuốc bổ gọi là cao quy.
Rùa nặng nề
chậm chạp nên không có khả năng lẩn tránh các cuộc tấn
công của loài vật khác, nhưng nhờ có mu dày và cứng bao
bọc cho nên khi gặp nguy hiểm, rùa chỉ việc co chân rút đầu
vào trong mu để biến thành như một khối đá vô tri thì cũng
chẳng còn sợ bị nguy hại đến thân. Trong quá trình tranh
đấu cho sự sống còn, để chống lại những đe dọa từ
bên ngoài cũng như của những người khác chủng tộc đến
đô hộ mình, người dân Việt cũng đã có những phương cách
để bảo vệ mình về phương diện vật chất lẫn tinh thần
rất giống rùa. Phải chăng do sự liên tưởng đó mà khi đặt
ra những huyền thoại cắt nghĩa những sự kiện lịch sử
quá khứ nhằm nâng cao tinh thần tự chủ, người dân Việt
đã chọn rùa làm biểu tượng cho một vị thần linh có công
ơn đối với dân tộc.
3.- CON RÙA CHẬM TIẾN
Có thể nói dân
tộc Việt nam là một dân tộc biết yêu dòng giống của mình
và không bao giờ muốn thấy dòng giống của mình bị tiêu
diệt, nhưng đồng thời dân tộc Việt nam ngay từ khi mới
bắt đầu lập quốc, cũng đã ý thức về thân phận bé nhỏ
và yếu kém của mình trước áp lực bành trướng của khối
người Hán từ phương Bắc. Do đó mà dân tộc Việt nam luôn
luôn thấy mình cần phải biết tự bảo vệ thì dòng giống
của mình mới được sống còn.
Kể từ thời
Văn lang trong suốt hơn hai ngàn năm trước công nguyên, dân
Việt nam đã quen sống thành làng. Và ngôi làng với lũy tre
xanh bao bọc như một lớp vỏ chắn chống lại những xâm
nhập đe dọa từ bên ngoài đã trở thành một thực tế cần
thiết đối với mỗi người dân Việt. Hằng ngày con người
đi lên rừng đốn cây, săn bắn, hay ra đồng trồng trọt,
nhưng cứ mỗi chiều về con người lại quay lại làng để
tìm một nơi chốn nghỉ ngơi an toàn. Ngoài ra, bất cứ khi
nào có sự đe dọa từ bên ngoài đến thì dân làng lại rút
vào trong làng để cố thủ.
Tiếp theo một
ngàn năm Bắc thuộc, để trốn tránh phần nào những sự
tàn sát bóc lột của đám người Trung hoa cai trị, người
dân Việt lại càng sống co cụm trong làng với nhau để tự
bảo vệ. Tuy chỉ là phương cách bảo vệ thụ động, nhưng
ngôi làng với lũy tre bao bọc cũng đã tỏ ra hữu hiệu trong
việc che chở cho dân làng về mặt an ninh vật chất chẳng
khác nào cái mu rùa bảo vệ thân rùa, do đó mà về mặt tinh
thần, người dân Việt cũng đã tạo ra cho mình một cái mu
rùa tâm lý bằng cách tạo ra những huyền thoại tự hào về
dòng giống với những nề nếp riêng hầu chống đỡ mọi
mưu toan đồng hóa của người Trung hoa.
Trên thực tế,
phương cách bám víu vào làng để mà tồn tại đã tỏ ra
hữu hiệu trong suốt quá trình bị đô hộ hơn mười thế
kỷ làm cho người dân Việt nảy sinh cái tâm lý tự hào về
đức tính kiên trì và chịu đựng của mình. Nhưng bên cạnh
cái tâm lý tự hào này lại kèm theo cái mặc cảm về thân
phận bé nhỏ và yếu kém luôn luôn bị người Trung hoa đông
hơn, mạnh hơn, văn minh hơn, khống chế mình về mọi phương
diện, khiến cho người dân Việt hầu như cũng chỉ loanh quanh
với cái tâm lý cầu an và những cách thế tự bảo vệ một
cách thụ động chứ không bao giờ thoát ly khỏi ảnh hưởng
của Trung quốc.
Với lối sống
co cụm, sự tiếp xúc của con người cũng trở thành hạn
hẹp nên ngoài nền văn hoá của kẻ thống trị chiếm vị
thế ưu thắng, người dân Việt chỉ biết tin vào những gì
gần gũi với mình, còn những gì thuộc về bên ngoài lũy
tre xanh đều không có giá trị và đáng nghi ngờ. Do đó mà
về mặt nhận thức, người Việt nam cũng đã tạo ra cho mình
nhiều thành kiến chủ quan và cố chấp ăn sâu vào tiềm thức
khiến cho con người không muốn chấp nhận những lề lối
suy nghĩ và hành động không phù hợp với cái tâm lý cầu
an thụ động của mình.
Kể từ khi cuộc
cách mạng khoa học xảy ra tại Tây phương làm thay đổi cách
suy nghĩ và nếp sống của con người thì một số quốc gia
Tây phương nhờ đó đã trở nên hùng cường và đổ xô đi
tìm thuộc địa ở các châu khác. Do sự tiếp xúc này mà
các quốc gia Châu A¨ cũng đã bắt đầu nhận thấy phải
thay đổi quan niệm để học đòi văn minh Tây phương mà canh
tân xã hội. Tuy nhiên tại Việt nam thì cái thành kiến tôn
sùng văn hóa Trung hoa của giới sĩ phu cầm quyền và cái bản
chất không muốn thay đổi cái nề nếp cha ông từ bao đời
nay của người dân vẫn là cái mu rùa ngăn cản nền văn minh
tiến bộ bên ngoài không thể nào xâm phạm.
Ngay từ đầu
triều Nguyễn, do có các hoạt động truyền giáo của các
vị thừa sai Thiên chúa giáo từ Âu châu qua mà một số người
Việt nam có cơ hội tiếp xúc với nền văn hoá khoa học của
Tây phương rất sớm. Nhiều kẻ thức giả như nho sĩ công
giáo Nguyễn Trường Tộ, linh mục Ðặng đức Tuấn cũng đã
vạch ra một chân trời mới sáng sủa hơn bên ngoài lũy tre
xanh cho người dân Việt nam, nhưng cái thành kiến chỉ tin
những cái gì gần gũi và đã trở thành quen thuộc với mình
và nghi ngờ những phát minh mới mẻ ngoại lai đã là cái
mu rùa đè nặng lên tâm tư khiến cho những người cầm vận
mệnh quốc gia lúc bấy giờ vẫn cứ rúc vào trong đó để
tìm sự an thân mà không mở mắt ra được. Hậu quả của
hành động không thức thời này của vua quan nhà Nguyễn đã
làm cho dân tộc không đủ sức chống trả cuộc xâm lăng
và nước nhà rơi vào vòng nô lệ của thực dân Pháp. Dân
Việt nam thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người Trung quốc
thì lại bị người Tây phương cai trị. Tuy nhiên dù sao thì
đây cũng là một dịp để người dân Việt mở mắt ra nhìn
trực tiếp nền văn minh Tây phương, nhờ đó mà các thành
phần tân học hấp thụ nền văn hoá mới đã có thể truyền
bá những tư tưởng tiến bộ và cổ võ cho một cuộc cách mạng.
Cuộc Khởi nghĩa
của toàn dân Việt nam nhằm phá bỏ ách nô lệ đã xảy ra
vào mùa thu năm 45, nhưng cuộc cách mạng xây dựng một xã
hội tự do dân chủ văn minh và tiến bộ kịp với thời đại
thì lại bị đổ vỡ. Lý do của sự thất bại là từ cấp
lãnh đạo cho chí người dân cứ rút mình vào trong cái vỏ
tự hào của quá khứ với những nhận định chủ quan mà
không còn biết nhận định thực tế một cách sáng suốt
để thực hiện một cuộc cách mạng thực sự nên đã phạm
phải quá nhiều sai lầm, khiến cho cái mặc cảm thân phận
nhược tiểu trước những nước lớn mạnh lại có dịp thao
túng tư duy để rồi chỉ biết tùng phục phe này hay phe kia
khiến cho mọi nỗ lực và thiện chí của những con người
thực lòng yêu tổ quốc và dân tộc đều hoá thành công dã
tràng, và tất cả những công cuộc được gọi là cách mạng
rốt cuộc lại chỉ còn là một sự khoa trương các mỹ từ,
còn dân tộc thì vẫn cứ luẩn quẩn trong vòng ngu tối và
chậm tiến.
Cũng vì cái đầu
óc thiển cận, nhưng lại dễ mơ mộng và thích những điều
hoang tưởng mà một số người Việt nam khi mở mắt nhìn
vào các trào lưu tư tưởng đối đầu nhau đang tràn lan trên
thế giới đã chọn nhầm chủ nghĩa cộng sản, và khi đã
chấp nhận rồi thì do cái đầu óc cố chấp khiến cho họ
lại cứ khư khư với cái nhận định chủ quan độc đoán
của mình mà không chấp nhận những ý kiến đối lập, khiến
cho họ đã thẳng tay tiêu diệt những kẻ không theo họ.
Nhờ biết lợi
dụng một cách tinh vi cái mu rùa bốn ngàn năm tự hào về
dòng giống cùng với đức tính kiên trì chịu đựng hy sinh
và gian khổ của người dân mà người Cộng sản Việt nam
đã có thể trói buộc người dân Việt đeo đuổi tới cùng
cuộc chiến tranh trường kỳ về ý thức hệ để áp đặt
chủ nghĩa cộng sản lên cả nước. Người Cộng sản Việt
nam cũng đã lợi dụng cái đầu óc dễ mơ ước viễn vông
theo kiểu "thả mồi bắt bóng" của người dân để vẽ lên
một thiên đường hạ giới cho mai sau, biến nó thành cái
mu rùa che chở những ước mơ để cho người dân cứ rút
mình vào đó với những ước mơ ảo tưởng của mình mà
quên đi cái bia đá của thực tế đầy hy sinh xương máu và
những bất công tàn bạo phát xuất từ cái chủ nghĩa ngoại
lai sai lầm, dối trá, phi nhân bản đang đè lên dân tộc.
Sau đó thì chủ nghĩa cộng sản cũng đã trở thành cái mu
rùa để cho người cộng sản Việt nam cứ rúc vào đó mà
tìm sự an ninh cho bản thân mình cho nên ngày nay, hầu hết
các người theo chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới đã từ
bỏ con đường Mác xít, riêng tại Việt nam, các lãnh tụ
cộng sản già nua vẫn không chịu nhìn thấy hay không muốn
nhìn thấy sự lỗi thời của cái lý thuyết không tưởng,
và vẫn cứ bám víu vào cái chủ nghĩa đó để mà tồn tại.
Có lẽ do người Trung hoa coi long, lân, quy, phụng là bốn con
vật linh thiêng mà người dân Việt đã chọn Rồng như là
tổ phụ của mình, không phải chỉ để mà tự hào cho riêng
mình mà còn muốn tỏ cho người Trung hoa thấy mình cũng không
phải là một dân tộc kém hèn cho dù dân Việt nam có bị
người Trung hoa cai trị. Do đó mà để đề cao tinh thần tự
chủ người dân Việt mới lại nghĩ đến Rùa vàng để đặt
ra những câu chuyện huyền thoại về một vị thần linh cứu
độ cho dân tộc trong lịch sử chống xâm lăng.
Huyền thoại bao
giờ cũng mang tính chất hoang tưởng.Tuy nhiên những điều
hoang tưởng nhiều khi không phải hoàn toàn vô căn cứ mà
chính là sự sáng tạo bắt nguồn từ những thực tại đã
ăn sâu vào tiềm thức. Nhìn vào thực tế thì cái cách thế
đối phó thụ động " thà chết một đống hơn sống một
mình," cái bản chất bảo thủ những gì đã trở thành nề
nếp " giấy rách phải giữ ly lề," và đức tính bám trụ
kiên trì chịu đựng của người dân Việt trong suốt quá
trình lịch sử dựng nước và giữ nước quả có nhiều điểm
rất giống cung cách sinh họat của rùa. Do đó mà hình ảnh
rùa như là biểu tượng cho một vị thần linh có công đối
với dân tộc cũng chỉ là một sự phát xuất từ liên tưởng
thực tế.
Qua bốn ngàn năm
hạnh phúc ít, gian khổ nhiều, nhưng vẫn không ngừng cố
gắng bảo vệ dòng giống của mình để tiếp tục trường
tồn như một dân tộc thuần nhất, người dân Việt quả
đã tỏ ra có một đức tính kiên trì chịu đựng để sinh
tồn rất đáng khâm phục. Nhưng đồng thời, cái tâm lý hay
nghi ngờ, chậm chạp, và thói quen thu mình vào trong cái mu
cầu an của những nề nếp bảo thủ và cố chấp cũng là
một trở ngại cho ý hướng muốn vươn lên.
Dù muốn dù không
thì đối với người Việt nam, cái hình ảnh con rùa cũng
đã có giá trị một biểu tượng và cho đến nay vẫn còn
ám ảnh người dân Việt. Do đó mà ngày nay, nhìn lại đất
nước vẫn lạc hậu so với đà tiến triển của các quốc
gia trên thế giới, nhiều người đã phải chua xót ví von
con rùa còn là biểu tượng cho sự chậm tiến.
Nếu trong quá
khứ, cái hình ảnh con rùa mang trên mình tấm bia đá nặng
ngàn cân, hay làm cái bệ để cho chim hạc đứng đã làm cho
người dân Việt liên tưởng đến hoàn cảnh dân tộc lúc
nào cũng bị các nước lớn hay tài giỏi hơn mình khống chế
để rồi coi cái hình ảnh đó như là một tượng trưng cho
cái mặc cảm thân phận thì ngày nay, để tránh mang thêm cái
mặc cảm "con rùa chậm tiến," người dân Việt cần phải
biết ra khỏi cái mu rùa của cái tư tưởng cố hữu chỉ
muốn "tự hào với quá khứ, cầu an trong hiện tại và thụ
động trước tương lai," để có thể dấn thân vào một cuộc
cách mạng thật sự và toàn diện hầu biến cải vận mệnh
đất nước, chứ không phải cứ ôm mãi cái mặc cảm thân
phận để rồi xót xa cho dân tộc như lời câu ca dao về thân
phận con rùa đã nêu ở trên.
ĐOÀN
VĂN KHANH
Hay y nghĩa w
ReplyDelete