1.- LÔNG NGỖNG RẢI ÐƯỜNG
Dân tộc Việt nam đã kết thúc thời
kỳ huyền sử của mình với 18 đời vua Hùng trị vì nước
Văn Lang kéo dài trên hai ngàn năm để bước vào thời kỳ
bắt đầu có sử bằng một câu chuyện tình rất thương tâm.
Sử chép rằng: vào cuối đời Hồng
Bàng, có Thục vương muốn hỏi cưới con gái của vua Hùng
nhưng không được bèn quyết tâm đánh nước Văn lang để
báo thù. Thừa cơ hội vua Hùng thứ 18 cậy mình có binh cường
tướng giỏi nên bê trễ việc nước, Thục Phán đã đánh
chiếm được nước Văn Lang. Vua Hùng thua chạy, phải nhảy
xuống giếng tự tử.
Vào năm Giáp Thìn tức năm 257 trước
Tây lịch, sau khi dẹp yên mọi nơi, Thục vương bèn xưng là
An Dương vương, đổi tên nước thành Âu lạc, đóng đô
ở Phong Khê. An Dương vương lại còn cho xây Loa thành, và
nhờ có thần Kim Quy cho một cái móng chân của mình để chế
thành cái lẫy nỏ, biến nỏ thành nỏ thần, chỉ cần bắn
một mũi tên cũng giết được cả ngàn quân địch, nhờ đó
mà nhà vua đã giữ yên được nước.
Cũng vào thời gian này thì Triệu
Ðà, một quan úy ở quận Nam Hải của Tàu muốn thôn tính
Âu Lạc nên thường kéo quân sang đánh. Chính vì An Dương
vương có nỏ thần mà Triệu Ðà lần nào kéo quân qua cũng
bị thất bại. Triệu Ðà bèn giả kế kết thân, cưới con
gái của An Dương vương là Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng
Thỉ để nhờ đó mà dò thám tình hình.
Sau khi đã thành vợ chồng, Trọng
Thỉ bèn dò hỏi vợ nguyên do nhờ đâu mà nước Aâu Lạc
không ai đánh được. Mỵ Châu vì tin chồng nên cứ thật
tình đem chuyện nỏ thần ra kể và còn lén chỉ cho Trọng
Thỉ xem chiếc nỏ. Trọng Thỉ biết được điều bí mật
này liền làm một cái lẫy nỏ giả tráo vào nỏ thần. Sau
đó Trọng Thỉ bèn viện cớ về thăm nhà để trở về nước
báo cáo sự tình cho cha mình.
Trước khi từ giã, Trọng Thỉ vì
lưu luyến chút nghĩa vợ chồng nên đã ướm hỏi Mỹ Châu
nếu như khi Trọng Thỉ đang xa cách mà có giặc giã nổi lên
thì làm sao để Trọng Thỉ có thể tìm được nàng. Mỵ Châu
nói là nếu trường hợp nàng phải bỏ chạy khỏi chốn này
thì nàng sẽ mang theo cái gối lông ngỗng, và dùng lông ngỗng
rắc dọc theo đường đi, như vậy chỉ cần theo vết lông
ngỗng mà tìm thì thế nào cũng gặp nhau.
Triệu Ðà sau khi được Trọng Thỉ
về báo cho biết tình hình bên Âu Lạc, bèn khởi binh sang
đánh. An Dương vương cậy có nỏ thần nên không phòng bị
gì cả, đợi giặc đến chân thành mới đem nỏ thần ra bắn
thì nỏ không còn linh nghiệm nữa. Giặc tràn vào thành. An
Dương vương túng thế phải kéo Mỵ Châu đèo lên mình ngựa
chạy trốn. Khi chạy đến chân núi Mộ Dạ thì cũng là ra
đến bờ biển cùng đường, An Dương vương sực nhớ đến
thần Kim Quy bèn khấn thần lên cứu. Thần Kim Quy hiện lên
bảo cho biết giặc chính là kẻ ngồi sau lưng nhà vua nên
thần cũng không còn cách nào để giúp nhà vua được nữa.
An Dương vương quay nhìn con gái mình, rồi vì quá tức giận
nên đã rút gươm chém Mỵ Châu, xong nhảy xuống bể tự vẫn.
Phần Mỵ Châu nhớ lời hẹn với
chồng nên đã mang theo cái gối lông ngỗng và lén rắc những
cái lông ngỗng trên đường chạy trốn, nhờ thế mà Trọng
Thỉ đã lần theo dấu tìm ra chỗ Mỵ Châu nằm chết. Trọng
Thỉ chỉ còn biết đem xác vợ về an táng, sau đó vì đau
buồn nên cũng nhảy xuống cái giếng ở trong Loa thành tự
tử. Vì Mỵ Châu vốn ngay tình mà phải chết oan nên khi máu
chảy xuống bể có những con trai đã ăn phải máu ấy mà
hóa ra có ngọc trân châu. Tương truyền kẻ nào lấy được
ngọc ấy đem về rửa vào nước giếng mà Trọng Thỉ đã
tự tử ở Loa thành thì ngọc ấy sẽ trong sáng và đẹp vô ngần.
Bỏ qua những chi tiết có tính cách
hoang đường như là cái nỏ thần có thể sát hại một lúc
hàng ngàn quân địch, những con trai ăn phải máu Mỵ châu
mà sinh ra ngọc qúy, hoặc là nước giếng nơi Trọng Thỉ
tự tử làm cho ngọc trân châu sáng đẹp ra, cũng như tính
chất không thực tế của chuyện rắc lông ngỗng vì có thể
bị gió thổi bay đâu còn dấu để chỉ đường đi cho Trọng
Thỉ, nội dung còn lại của câu chuyện chính là nhằm giải
thích lý do tại sao nhà Thục bị mất nước về tay họ Triệu.
Cuộc hôn nhân của Mỵ Châu là
do sự sắp đặt có mục đích của hai thế lực tương tranh.
Mỵ Châu chỉ vâng theo ý cha mà không chút nghi ngờ gì về
những âm mưu đen tối bên trong. Nhưng với bản tính đàn
bà giàu tình cảm nên một khi đã có chồng thì nàng lại
rất mực thương chồng, và đó cũng là nguyên nhân cái chết
của Mỵ Châu, chỉ vì tình yêu và tấm lòng chân thật của
nàng đã bị những kẻ có tham vọng mưu bá đồ vương lợi dụng.
Còn Triệu Ðà sau khi lấy được
Âu Lạc thì sát nhập vào quận Nam Hải và lập thành một
nước gọi là Nam Việt, đem văn minh Trung quốc truyền sang Âu Lạc cho nên dân Văn Lang bắt đầu tiêm nhiễm văn hoá
phương Bắc kể từ đó. Nhà Triệu làm vua Nam Việt truyền
được năm đời trong gần một thế kỷ thì bị nhà Hán chiếm,
chia ra làm 9 quận, đặt quan cai trị như bên Tàu. Người dân
Việt bước vào thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một ngàn
năm.
Chính sách cai trị tàn ác của người
Tàu đối với dân Giao chỉ và nhất là những sự trả thù
dã man của quân Tàu đối với những lần dân Giao Chỉ nổi
dậy không thành công đã khiến cho người dân Việt hình như
lúc nào cũng mang một nỗi oán hờn và cứ phải trí trá hay
giả dại để sống còn. Có lẽ vì nếp sống giả khôn giả
dại này và thái độ co cụm với gia đình của mình kéo dài
hết thế kỷ này qua thế kỷ khác đã ăn sâu vào tiềm thức
khiến cho sau này khi dân Việt đã giành lại được quyền
tự chủ, cái thói quen nghi ngờ và tâm lý bảo thủ cho gia
đình ấy vẫn tiếp tục tác động lên hành vi của những
con người Việt khi đối xử với nhau, khiến cho đất nước
không bao giờ thực sự ổn định và người dân vẫn cứ
phải sống trong cảnh loạn lạc triền miên.
Cũng kể từ thời nhà Triệu trở
đi, do ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc và nền luân lý
Khổng giáo mà cái tâm lý trọng nam khinh nữ dần dần thấm
nhập vào mọi tầng lớp xã hội Việt nam khiến cho người
đàn bà Việt nam luôn luôn bị ràng buộc vào những bổn phận
khắt khe. Tuy nhiên cái bản tính thương chồng thì hầu như
không thay đổi, và cũng chính vì cái bản tính này mà người
đàn bà Việt nam hầu như lúc nào cũng mang một thân phận
đáng buồn.
2.-MIẾNG TRẦU DUYÊN NỢ
Tâm lý thông thường thì bất cứ
người con gái nào lớn lên cũng mong muốn có người trai nào
đó sẽ mang trầu cau đến hỏi mình làm vợ. Tục ngữ có
câu: "Miếng trầu là đầu câu chuyện". Sở dĩ có câu nói
trên là vì dân Việt nam vốn có tục ăn trầu cho nên đám
cưới đám hỏi bao giờ cũng phải có trầu cau. Mặc dù ngày
nay hầu hết người Việt nam không còn ai ăn trầu nhưng cái
tục lệ phải có cau trầu cho mâm sính lễ vẫn còn được
duy trì.
Theo truyền thuyết thì tục ăn trầu
vốn có từ đời Hùng Vương. Huyền thoại nhằm cắt nghĩa
tục ăn trầu của người Việt nam cũng là một câu chuyện
tình éo le và thương tâm không kém. Câu truyện tóm tắt như
sau:
Có hai anh em nhà nọ rất giống
nhau và rất thương yêu nhau. Ðến tuổi trưởng thành thì
cả hai lại cùng yêu một người con gái, nhưng khi người
anh được kết hôn với cô ta thì người em vì thế mà sinh
ra buồn rầu, không thể sống chung mà lòng thì mang mối tình
tuyệt vọng nên đã bỏ nhà ra đi. Một ngày nọ, khi đến
bên một bờ suối thì kiệt sức mà chết và hóa thành một
tảng đá.
Vì thương em nên khi thấy người
em bỏ đi biệt tích, người anh cũng bỏ nhà đi tìm. Lúc đến
bên tảng đá cạnh bờ suối chỗ người em đã chết thì
cũng kiệt sức mà chết và hóa thành cây cau mọc cạnh phiến
đá. Người vợ ở nhà trông ngóng hoài không thấy chồng
về nên cũng bỏ đi tìm. Lúc đến con suối có cây cau mọc
cạnh tảng đá thì cũng kiệt sức, chết đi và hoá thành
giây trầu leo quấn quít vào thân cây cau.
Cũng câu truyện này, nhưng có người
đã biến đổi đi một số tình tiết, nên thay vì hai người
cùng yêu một người con gái lại được kể là khi người
anh có vợ rồi thì hàng ngày hai anh em vẫn ra đồng làm việc
chung với nhau. Chiều về người vợ ra đón chồng thấy người
anh bao giờ cũng đi trước, còn người em theo sau. Một hôm
nọ, vì người anh còn bận việc chưa về nên người em về
trước. Người vợ mới thấy người em lại tưởng là chồng
mình nên đã ôm lầm khiến cho người em từ đó mang một
mặc cảm như có lỗi với anh mình. Không thể chịu nỗi sự
ray rứt này nên người em cuối cùng đành phải bỏ nhà ra
đi. Có lẽ vì chịu ảnh hưởng của nền luân lý Khổng Mạnh
mà người ta đã kể khác đi phần đầu, riêng phần kết
cuộc thì cũng giống nhau.
Khi vua Hùng đi tuần thú ngang qua
vùng này, thấy cây lạ bèn hỏi thăm sự tích. Nghe dân chúng
kể lại câu truyện, nhà vua xúc động, bèn truyền lấy lá
trầu và quả cau cho vào miệng nhai thử thì thấy có một
hương vị đặc biệt khiến cho tinh thần sảng khoái. Ðến
lúc nhổ nước cốt ấy lên tảng đá thì nước cốt đó
hóa nên đỏ tợ máu. Nhà vua cho đó là điều biểu tượng
cho tình thương yêu gắn bó nên mới truyền cho dân gian dùng
trầu cau để cúng tổ tiên, cũng như trong việc cưới hỏi.
Theo tập tục cổ truyền, một khi
bên đàng gái đã nhận mâm lễ trầu cau của đàng trai là
coi như sự hôn nhân của đôi trai gái đã định xong. Do đó
mà ngày xưa bậc làm cha mẹ vẫn thường khuyên con gái mỗi
khi giao tiếp "làm thân con gái chớ ăn trầu người" vì khi
một người con gái nào đó mới quen biết một người con
trai thôi mà đã ăn miếng trầu của người con trai mời mình
thì kể như cũng đã có tình ý với người con trai đó rồi:
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu,
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa.
Làm cho quên mẹ quên cha,
Làm cho quên cả đường ra lối vào.
Trong một xã hội mà con người không
phải chỉ sống cho mình mà sống là sống với gia đình, giòng
họ, làng nước thì sự hôn nhân không do đôi nam nữ quyết
định mà thường là "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Nhưng
sự quyết định của cha mẹ nhiều khi lại không phù hợp
với mong ước của người con, hay nhiều khi còn đi ngược
lại cả mong ước của người con. Tuy nhiên vì lễ giáo phong
kiến và dư luận xóm giềng nên bao giờ người con cũng phải
hy sinh mình để làm tròn chữ hiếu, nhưng lòng thì không làm
sao tránh khỏi ấm ức:
Mẹ em tham thúng xôi vò
Tham con lợn béo, tham vò rượu tăm
Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng
Nếu tình yêu là một sự tìm đến
nhau do tiếng gọi của con tim có tính cách tự do và tự phát
thì hôn nhân lại là một định chế của xã hội có kèm
theo sự ràng buộc về trách nhiệm và bổn phận. Do đó mà
trong hôn nhân dù đã từng quen biết nhau hay chỉ do mai mối
và sự sắp đặt của cha mẹ đôi bên, nhưng một khi đã
nên đạo vợ chồng thì người con gái luôn luôn bị tập
tục ràng buộc phải yêu chồng và chấp nhận gia đình chồng
làm gia đình mình. Cũng vì sự ràng buộc đó mà lỡ khi có
gặp phải hoàn cảnh không như ý thì người đàn bà cũng
chỉ đành cắn răng chịu đựng mà thôi:
Chồng em nó chẳng ra gì
Tổ tôm sóc đĩa nó thì chơi hoang
Nói ra xấu thiếp hổ chàng
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà
Và trong sự đưa đẩy của số phận
đó, người con gái hầu như phải chấp nhận những gì mà
xã hội đã quy ước: "Làm thân con gái mười hai bến nước,
trong nhờ đục chịu" một khi mà "ván đã đóng thuyền".
3.-CÁI CÒ LẶN LỘI
Con cò thường hay được nhắc đến
trong văn học dân gian và chữ Nôm như là một hình ảnh tượng
trưng cho người đàn bà trong xã hội Việt nam. Có lẽ trong
cuộc sống thiên nhiên, con cò thật ra chẳng biểu lộ một
nét nào về thân phận đáng thương nhưng văn học vẫn thường
hay nhắc đến hình ảnh con cò để ám chỉ nỗi buồn thân
phận của người đàn bà.
Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho biển kia đầy,
Cho ao kia cạn cho gầy cò con!
Theo các nhà khảo cổ học thì dân
tộc Việt nam nguyên thủy vốn theo chế độ mẫu hệ. Do ảnh
hưởng của nền văn hóa phương Bắc mà dân Việt đã chuyển
sang chế độ phụ hệ. Có lẽ do truyền thống còn sót lại
này mà dân tộc Việt nam cũng đã từng có những bậc nữ
kiệt ghi lại nhiều trang sử vẻ vang như Hai bà Trưng, bà
Triệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân... nhưng đấy chỉ là ngoại
lệ. Ða số người đàn bà Việt nam suốt mấy ngàn năm qua,
đã vì nền luân lý Nho gia mà đã phải sống một cuộc đời
hẩm hiu.
Cái quan niệm trọng nam khinh nữ
của nền luân lý Trung hoa đã khiến cho người đàn bà bị
tước bỏ vai trò ngoài xã hội để ràng buộc người đàn
bà vào những bổn phận gia đình. Người đàn bà lúc nào
cũng phải sống đúng với "tam tòng tứ đức". Ðạo Tam Tòng
có nghĩa là người con gái lúc còn sống với cha mẹ thì phải
tuân lời cha mẹ, lúc đi lấy chồng thì phải theo chồng,
và nếu như chồng chết thì phải theo con. Trước khi lấy
chồng người con gái còn phải lo trau dồi Tứ Ðức "công
dung ngôn hạnh" để khi về nhà chồng có thể quán xuyến
mọi việc bên nhà chồng. Khi người đàn ông chỉ nghĩ chuyện
công danh thì hầu như mọi việc trong cửa nhà đều được
giao phó cho người đàn bà phải cáng đáng:
Canh một dọn dẹp cửa nhà
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm
Canh tư buớc sang canh năm
Trình anh dậy học chớ nằm là chi
Nữa mai chúa mở khoa thi
Bảng vàng rực rỡ kia đề tên anh
Trong thực tế, sống trong nền văn
minh nông nghiệp thì vai trò của người đàn bà trong đời
sống kinh tế gia đình nhiều khi không khác gì vai trò của
người đàn ông. Người đàn bà cũng phải làm lụng để
lo cho gia đình. Có lẽ cảm thương người mẹ vất vả của
mình mà Hồ Dzếnh, một thi sĩ tiền chiến của Việt nam mang
trong mình hai giòng máu Việt-Hoa đã có những câu thơ như
sau:
Cô gái Việt Nam ơi
Từ thuở sinh ra lận đận rồi...."
Hai tiếng lận đận mà nhà thi sĩ
dùng đã mô tả rất đúng thân phận người đàn bà Việt
nam từ xưa nay. Thực vậy, người đàn bà Việt nam rất là
lận đận, và nếu mà nói đến hy sinh thì ít có người đàn
bà nào trên toàn thế giới này hy sinh nhiều cho bằng người
đàn bà Việt Nam.
Nhiều khi nếu gặp trường hợp
người chồng vì một lý do nào đó không thể lo cho gia đình
thì chính người đàn bà lại phải gánh vác.Vào cái thời
buổi Nho học suy tàn, những người lỡ thời lỡ vận như
Trần Kế Xương cũng đành thấy mình vô dụng, nên chỉ còn
biết trông cậy vào người vợ tảo tần của mình để nuôi
sống gia đình cho nên mới cảm thương vợ mà có bài thơ
sau:
Quanh năm buôn bán ở ven sông.
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng.
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận.
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha Mẹ thói đòi ăn ở bạc.
Có chồng hờ hững cũng như không
Cái điều này không phải chỉ xảy
ra trong xã hội thời Tú Xương mà hầu như trong mọi lúc hoàn
cảnh xã hội bị xáo trộn, người ta đều thấy người đàn
bà phải gánh vác. Còn trong hoàn cảnh bình thường, nhiều
khi người chồng vì bận đuổi theo chút công danh hay phải
lo việc nước thì cũng lại đành phó mặc việc nhà cho vợ:
Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi anh liệu đua chen với đời
Người vợ dù có mong muốn chồng
kiếm được chút công danh để cho mình cũng được nở mày
nở mặt theo đi nữa thì trước cảnh xa cách lòng cũng không
làm sao tránh khỏi cảnh:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Trong suốt bao nhiêu thế kỷ bị kềm
hãm trong nền luân lý Nho gia, người đàn bà Việt nam đã
âm thầm hy sinh và chịu đựng. Nhưng cũng chính vì người
đàn bà thì quá tình cảm mà trách nhiệm cũng như bổn phận
quá nặng nề, nào lo nuôi nấng gia đình lại phải giáo dục
con cái cho nên ảnh hưởng của người mẹ đối với người
con hầu như bao giờ cũng gây nhiều ấn tượng sâu sắc hơn
của người cha, do đó đôi khi cũng có ảnh hưởng không tốt
vì tình cảm quá nhiều cũng dễ bị thiên lệch và dễ sinh
ra ích kỷ. Chính vì thế mà tục ngữ cũng từng có câu: "Con
hư tại mẹ, cháu hư tại bà".
Trong cái nỗi đau khổ của kiếp
người lận đận đó, nếu người đàn bà chỉ còn tìm thấy
cứu cánh đời mình trong cái tình cảm thương chồng thương
con của mình thì cũng là lẽ tất nhiên. Ðể an ủi người
đàn bà, chế độ phong kiến trước đây cũng đã từng đặt
ra lệ vua ban sắc phong cho những người đàn bà được xét
là gương mẫu trong việc chu toàn bổn phận của người đàn
bà theo quan niệm đạo đức Nho gia với bốn chữ "Tiết Hạnh
khả phong", và cũng chính vì bốn chữ này mà bao nhiêu người
đàn bà cứ đành hy sinh cả một đời.
4.-TƯỢNG ÐÁ TRÔNG CHỒNG
Trong hoàn cảnh một
quốc gia mà chinh chiến là một hiện tượng gần như triền
miên thì cuộc đời người đàn bà có chồng để thấy mình
chỉ là kẻ chinh phụ hầu như rất phổ biến:
Trời sinh ra giặc làm chi
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường.
Chiến tranh gây tang
tóc, chia ly và xa cách khiến cho bao nhiêu người đàn bà Việt
nam cứ phải sống trong cảnh cô đơn. Ðiều này không những
chỉ phản ảnh qua ca dao mà ngay cả trong văn chương bác học
cũng không thiếu gì văn thi sĩ đề cập đến. Ðặng Trần
Côn, một nho sĩ thời Lê do cảm thương thân phận người
đàn bà trong hoàn cảnh đất nước luôn chìm trong cảnh loạn
lạc mà đã sáng tác ra bản Chinh Phụ Ngâm, nhưng chính bản
dịch ra chữ nôm của bà Ðoàn Thị Ðiểm mới nổi tiếng
và được phổ cập trong dân gian nhiều hơn. Mặc dù người
đàn bà nào có chồng đi chinh chiến lại chẳng mong thấy
chồng mình làm nên sự nghiệp, nhưng niềm vinh hoa phú qúy
thì ít ai được hưởng mà cái cảnh nếu không là goá phụ
thì cũng là người chinh phụ trông chồngï lại thường xảy
ra.
Lạng sơn, tỉnh
giáp giới với Trung quốc cũng là nơi địa đầu trấn thủ
của những người lính xa nhà bảo vệ quê hương. Trên một
đỉnh núi có tảng đá giống hình mẹ bồng con và người
đời đã truyền tụng nhau câu chuyện nàng Tô thị.
Chuyện kể rằng
ngày xưa ở một làng miền xuôi có hai anh em nhà họ Tô, cha
mất sớm còn mẹ hàng ngày phải ra đồng mò cua bắt ốc
về nuôi hai đứa con. Một hôm hai anh em ở nhà chơi đùa nghịch
ngợm với nhau. Ðứa anh lỡ tay ném hòn đá trúng vào đầu
em gái. Thấy em ngã lăn nằm bất tỉnh, máu phun lênh láng,
đứa anh hoảng sợ quá không biết làm sao liền bỏ nhà trốn
biệt. Khi người mẹ về không thấy đứa con trai bèn cố
công tìm kiếm khắp nơi nhưng vẫn không ai gặp. Người mẹ
vì nhớ con đâm ra buồn rầu nên sinh bệnh mà chết. Ðứa
con gái được hai vợ chồng nọ đem về nuôi và sau đó được
cha mẹ nuôi đưa theo lên Lạng sơn.
Ðến tuổi trưởng
thành, đứa em gái được một chàng trai để ý và hỏi làm
vợ. Hai người ăn ở với nhau được một mặt con thì một
hôm đang lúc người vợ gội đầu người chồng mới để
ý thấy trên đầu vợ có một vết sẹo bèn hỏi thăm cớ
sự. Người vợ thật thà kể lại câu chuyện ngày xưa lúc
còn nhỏ do chơi đùa nghịch ngợm nên đã bị anh mình vô
ý quăng đá trúng khiến cho bị lỗ đầu. Người chồng nghe
xong câu truyện, liền nhớ lại câu chuyện của chính mình
thời thơ ấu bỏ nhà trốn đi, may được một người khách
trú đem về nuôi nấng. Không ngờ nay lớn lên thì do định
mệnh éo le xui khiến cho anh em lại gặp nhau mà không biết
khiến cho mình đã lấy nhầm em gái mình. Vì không thể mang
mãi mặc cảm tội lỗi ấy trong lòng nên người chồng mà
cũng là người anh đành xin đăng lính ra đi.
Người vợ không
hiểu uẩn khuất bên trong lòng chồng nên chỉ biết một mực
ở nhà nuôi con chờ chồng. Thấy nàng vắng chồng lâu ngày,
có nhiều kẻ bèn rắp tâm ngấm nghé nhưng nàng vẫn trung
thành với chồng nên ngày nào cũng bế con leo lên đỉnh núi
mong ngóng chồng về. Cuối cùng vào một đêm mưa to gió lớn
nhưng nàng vẫn ôm con đứng giữa trời trông về phương xa
chờ đợi cho nên đã bị sét đánh trúng. Qua hôm sau người
dân trong vùng nhìn lên đỉnh núi nơi hai mẹ con nàng Tô Thị
thường đứng thì thấy cả hai mẹ con đã hóa thành tượng
đá. Người đời vì vậy mới truyền tụng nhau mấu câu ca
dao:
Ðồng đăng có phố Kỳ lừa
Có nàng Tô thị, có chùa Tam thanh Ai lên thú Lạng cùng anh...
Tại vài vùng như
Bình Ðịnh và Phú Yên ở miền Trung, trên đỉnh núi cũng
có những khối đá đứng chơ vơ giữa trời, từ xa nhìn trông
như hình người mẹ bồng con nên người ta đặt cho cái tên
là Hòn Vọng phu. Người ta cũng kể cho nhau nghe vì sao hòn
đá mang cái tên đó. Nội dung câu chuyện cũng giống như câu
chuyện nàng Tô Thị, chỉ có một số chi tiết thì biến đổi
cho phù hợp với khung cảnh địa phương.
Dù là hòn Vọng
phu ở Lạng sơn hay những hòn vọng phu ở những nơi khác
thì cái sự tích mà người đời truyền tụng cho nhau cũng
mang một ý nghĩa chung: lòng thương chồng và ý nguyện được
cùng chồng sum họp. Nhưng chiến tranh không những gây cảnh
chia ly xa cách của những đôi vợ chồng, mà còn biết bao
nhiêu người đã sớm trở thành goá phụ. Một đôi khi cũng
có người vì tiếc cho cái tuổi xuân xanh của mình mà muốn
bước đi bước nữa thì lại vì tập tục nhà chồng mới
không nhìn nhận con riêng của vợ nên có người lại vì chút
tình thương con mà đành phải hy sinh hạnh phúc của mình:
Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai
Trong suốt chiều
dài lịch sử dân tộc, biết bao lần người dân Việt đã
phải chống xâm lăng và cũng biết bao lần trải qua những
cuộc nội chiến. Khi chiến tranh thì người chồng phải xa
nhà đi chiến đấu đã đành mà ngay cả khi chiến tranh đã
ngã ngũ thì kẻ mang danh bại trận lại bị kẻ chiến thắng
trả thù. Thời nhà Nguyễn, khi vua Gia long thống nhất được
giang sơn, không những nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn truy diệt
mà dân vùng quê hương của các vị anh hùng Tây Sơn cũng bị
khép vào tội phản nghịch vì đã theo Tây Sơn để chống
lại chúa Nguyễn.
Trong cuộc chiến
tranh Quốc Cộng vừa qua cũng đã có biết bao nhiêu trường
hợp của những người đàn bà Việt nam đã phải mang tâm
trạng của nàng Tô Thị. Bao nhiêu người đàn bà đã phải
làm quả phụ với đám cô nhi, hay mỹ miều hơn như những
người sống dưới chế độ cộng sản được gọi là vợ
liệt sĩ, mẹ liệt sĩ. Rồi khi cuộc chiến chấm dứt thì
với nửa nước bị coi là nguỵ dân và hàng triệu người
bị kết án là ngụy quân ngụy quyền để cho hàng triệu
người đàn bà đã phải xa chồng thời chinh chiến lại tiếp
tục phải xa chồng xa con vì chồng con bị bắt bớ tù đày
trong các trại tập trung cải tạo hoặc đã phải chạy trốn
ra nước ngoài.
Dưới thời đại
phong kiến, vì tam tòng tứ đức cũng như bốn chữ "Tiết
Hạnh khả phong" mà người đàn bà Việt nam đã phải bó mình
vào khuôn khổ của tập tục xã hội để sống. Dưới chế
độ Cộng sản, người đàn bà cũng đã vì bốn chữ "Trung
Hậu Ðảm Ðang" cũng như những lời tâng bốc mỹ miều của
Ðảng màquên mình để phục vụ cho chế độ hay động viên
chồng con hy sinh, cam nhận làm người vợ chiến sĩ, mẹ chiến
sĩ để sau đó trở thành vợ liệt sĩ, mẹ liệt sĩ với
cuộc sống cơ cực nghèo nàn và nỗi đau câm nín ở trong
lòng như bà mẹ Gio Linh.
5.- NƯỚC MẮT MẸ GIÀ
Sống trong một đất nước mà lịch
sử được viết bằng máu và nước mắt thì không lạ gì
cái cảnh nam nhi cứ phải ra đi chinh chiến. Trước sự chia
ly đó người đàn bà nào chẳng đau buồn nhưng cũng đành:
Anh ơi phải lính thì đi
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em
Người đàn bà thường không phải
trực tiếp tham gia vào cuộc chiến nhưng cuộc chiến lúc nào
cũng để lại những dấu ấn sâu sắc nơi người đàn bà.
Có người không những chỉ xa chồng thời son trẻ mà nhiều
khi đã qua một đời đau khổ vẫn còn tiếp nối sự đau
khổ vì những đứa con đến lượt lại ra đi chinh chiến.
Bản nhạc Bà Mẹ Gio Linh của nhạc sĩ Phạm Duy là một câu
chuyện cảm kích từ cái số kiếp lận đận của một người
mẹ Việt nam. Góa chồng, nuôi con. Ðến khi con khôn lớn thì
lại vì nợ nước thù nhà tiếp tục ra đi chiến đấu. Mẹ
đã già nhưng vì hoàn cảnh kinh tế gia đình nên vẫn cứ
phải vất vả với cuộc mưu sinh:
Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy...
Trong niềm thương con người mẹ chỉ
còn biết cầu khấn một ngày nào đó con sẽ trở về, nhưng
số mệnh nhiều khi lại hay khắt khe đối với những người
đã từng chịu đau khổ:
Mẹ già tưới nước trồng rau
Nghe tin xóm làng kêu gào
Quân thù đã bắt được con
Mang ra giữa chợ cắt đầu
Nghẹn ngào không nói một câu
Mang khăn gói đi lấy đầu ... ( Phạm Duy - Bà Mẹ Gio Linh )
May mắn lắm thì mới có được vài
bà mẹ già còn có dịp nhìn thấy con trở về, nhưng có khi
trở về với một tấm thân không còn lành lặn. Nhưng dù
sao thì đó cũng là chút an ủi cho tuổi giàhẩm hiu của mình:
Mẹ lần mò ra trước đê nắm áo ngừơi xưa ngỡ trong giấc mơ
Tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ... ( Phạm Duy - Ngày Trở Về )
Có lẽ trên thế giới ít có người
giống như người đàn bà Việt Nam: tìm hạnh phúc của mình
trong niềm thương chồng thương con của mình. Nhưng hình như
số phận xui khiến mà hầu như không mấy người đàn bà
Việt nam được hưởng cái may mắn để có được một nếp
sống yên vui, bình thường. Tham vọng và tính ích kỷ của
con người đã khiến cho xã hội nếu không loạn lạc thì
cũng thường xuyên bị cai trị bởi những chế độ bạo quyền,
khiến cho người dân Việt vẫn cứ luẩn quẩn với đói nghèo,
bất công và áp bức.
Người dân Việt ở thế kỷ 20
dù sao cũng đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền văn hóa
Tây phương nên đã có ý thức về hai chữ Tự do. Chính vì
thế mà khi miền Nam bị rơi vào tay Cộng sản, biết bao người
dân miền Nam không chấp nhận sống dưới một chế độ độc
tài nên đã liều chết tìm đường vượt biên. Có những
người ra đi vì lý do chính trị nhưng cũng có những người
vì thương mẹ già, thương con dại sống kham khổ, đã phải
liều thân tìm đường trốn ra nước ngoài để mưu cầu một
cuộc sống khả quan hơn về kinh tế hầu có phương tiện
giúp đỡ gia đình, thân nhân còn ở lại quê nhà. Biết bao
kẻ đã bỏ xác trong rừng sâu, đã làm mồi cho cá, bao nhiêu
đàn bà con gái bị hải tặc hãm hiếp và có khi còn bị giết
chết, và biết bao nhiêu kẻ không may bị bắt trở lại và
bị đưa đi đày cải tạo. Biết bao bà mẹ, bà vợ đã chắt
chiu hy sinh để cho chồng con ra đi mà không thành lại phải
ký cóp thăm nuôi. Câu ca dao sau đã nói lên cái hiện tượng
não lòng ấy:
Một là con nuôi cá
Hai là má nuôi con
Ba là con nuôi má
Sau 30 năm vừa chống ngoại xâm,
vừa nội chiến tương tàn, mà phần thắng không thuộc về
lẽ phải và công lý mà chỉ là bạo lực, đời sống vẫn
khó khăn và nhân phẩm con người vẫn cứ bị chà đạp nên
xã hội vẫn cứ là băng hoại. Vì tình cảm, những kẻ may
mắn thoát ra được nước ngoài để có được một cuộc
khả quan hơn đã cố gắng gửi tiền về giúp gia đình, thân
nhân ở quê hương. Sự giúp đỡ tuy có tỏ ra cái tình và
xoa dịu phần nào nỗi thương đau cực khổ của những người
thân, nhưng nếu chỉ vì tình cảm mà cưu mang chứ không hướng
đến một sự thay đổi tư duy chung thì không phải cách giải
quyết tận gốc vấn đề xã hội vì cơ cấu độc tài và
bạo lực vẫn còn thì xã hội vẫn cứ mãi luẩn quẩn trong
vòng đói nghèo bất công áp bức và lạc hậu.
Hơn hai ngàn năm trước Mỵ Châu
đã chết vì tham vọng của những kẻ mưu bá đồ vương.
Lịch sử bắt đầu thì cũng là lịch sử của những nỗi
đau thương: một ngàn năm Bắc thuộc, rồi một ngàn năm chinh
chiến triền miên chỉ vì tranh chấp lẫn nhau. Người dân
Việt qua bao nhiêu thế hệ vẫn sống trong nỗi ray rứt của
tình cảm nhiều hơn là suy nghĩ theo luận lý để tìm ra một
phương hướng giải quyết cho vấn đề xã hội.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment