Mỗi xã hội vào
mỗi thời kỳ vẫn thường có những mẫu người lý tuởng,
xuất phát từ những quan niệm triết học hay đạo đức đang
lãnh đạo tinh thần xã hội đó, nhằm hướng dẫn họăc
uốn nắn con người sống vào khuôn khổ. Mặt khác, do tác
động của môi trường hay hoàn cảnh làm cho con người sống
trong mỗi xã hội cũng đã tự động nảy sinh những lối
sống, lối suy nghĩ và hành động giống nhau theo một kiểu
cố định nào đó, lâu dần trở thành như những nét đặc
trưng chung, từ đó đưa đến sự hình thành những mẫu người
điển hình cho mỗi xã hội.
Nếu mẫu người
lý tưởng là cái mẫu mực hoàn thiện để cho mỗi người
noi theo thường có tính cách giả tạo và gò bó con người
vào những khuôn mẫu định sẵn thì mẫu người điển hình
lại là mẫu người hiện sinh và cụ thể, với những đặc
tính có thật do kết quả tập thành của tác động xã hội
hóa trên con người trong một môi trường và điều kiện xã
hội nhất định. Chính vì tính tự phát mà mẫu người điển
hình rất sống động, và mặc dù đôi khi được cường điệu
hoá các khuyết điểm để mang tính chất khôi hài nhưng vẫn
rất gần gũi với con người thật.
Xã hội Việt
nam cũng đã đẻ ra nhiều mẫu người điển hình qua nhiều
thời kỳ nhưng tiêu biểu nhất và trở thành phổ biến trong
văn học dân gian vẫn là thằng Bờm và chú Cuội. Trong chúng
ta không ai là không quen thuộc với cái tên thằng Bờm và
chú Cuội, và hình như mỗi người trong chúng ta không ít thì
nhiều cũng đã có lần bị người khác gọi mình bằng những
cái tên đó. Thông thường người ta vẫn hay dùng hai từ này
để trêu đùa người khác nhưng thực ra vẫn có một chút
ngụ ý chê bai nào đó.
1.-THẰNG BỜM CÓ CÁI QUẠT MO
Tên thằng Bờm có
lẽ phát xuất từ cái lối để tóc của bé trai dân Việt
ngày xưa, đầu tóc thường được cạo láng chỉ chừa một
chỏm nhỏ phía trước trán giống như cái bờm con ngựa, còn
sự tích về thằng Bờm thì không biết xuất xứ từ bao giờ.
Tuy nhiên bài ca dao tiêu biểu về Bờm thì hầu như không ai
là không thuộc nằm lòng:
Thằng
Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi hòn xôi Bờm cười
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi hòn xôi Bờm cười
Như vậy nói đến
Bờm là nói về chuyện một đứa bé ngây ngô, chậm chạp,
đôi khi quá thật thà, thường chỉ nhìn sự vật theo thói
quen đơn giản nên dễ sinh ra ngớ ngẩn. Sống theo phận con
nhà nghèo, vì Bờm chỉ có mỗi cái quạt mo, nên Bờm không
có nhiều ham muốn cũng như không hề biết so sánh hay đòi
hỏi, do đó nhu cầu của Bờm cũng không có gì khác hơn là
được ăn để sống.
Từ cái hình ảnh
này của Bờm người ta đã dùng Bờm để ám chỉ những ai
cũng mang trong mình một số đặc tính căn bản như thật thàmột
cách vụng về, chất phác đến độ gần như ngây ngô, không
có những nhu cầu cao xa hay phức tạp mà chỉ thích an phận
thủ thường; sống tự nhiên theo cái trật tự có sẵn trong
thiên nhiên, không biết đua đòi hay bon chen cho nên hay có cái
kiểu nằm chờ sung rụng; quen nhận định sự vật một cách
thiển cận nên không thích lý luận sâu xa để tìm kiếm cho
ra cái nguyên lý trừu tượng mà chỉ thích những biểu lộ
tình cảm tự nhiên và tự phát như cái mỉm cười hài lòng
khi thấy nắm xôi.
Có thể nói Bờm
là hiện thân của con người của xã hội sơ khai còn giữ
trong mình cái bản chất hiền lương nguyên thủy, sống một
cách đơn giản, gần với thiên nhiên và tự nhiên, không có
nhiều nhu cầu nên không cần vận dụng trí năng để khai
thác thiên nhiên và bắt thiên nhiên phục vụ mình. Cái quạt
mo phe phẩy chút hơi mát khi trời làm nóng nực và nắm xôi
chắc bụng khi đói lòng đủ đáp ứng cho Bờm sống một
cách bình thản và hài hòa với thiên nhiên, do đó Bờm hầu
như không muốn có sự thay đổi nào phá vỡ cái trật tự
đó.
Cũng vì thật
thà, không biết suy luận để tìm hiểu nguyên nhân mà chỉ
phán đoán theo cảm quan nên Bờm thường dễ tin qua tri giác
hiện tượng bề ngoài và dễ bị lầm, và một khi Bờm đã
tin thì cũng rất khó dùng lý trí để thuyết phục Bờmï
từ bỏ điều sai lầm của mình trừ phi chính Bờmï cảm
nhận được sự sai lầm bằng kinh nghiệm bản thân. Ngoài
ra cũng vì chỉ biết hành xử theo thói quen nên Bờm cũng thường
hay bảo thủ và cố chấp, chỉ muốn khư khư với sự hiểu
biết hạn hẹp hay điều ham thích phù hợp với ước mơ của
mình, do đó Bờm thường gây khó khăn trở ngại cho người
khác khi muốn chỉ dạy cho Bờm một điều mới lạ hay muốn
cùng Bờm hợp tác trong những công việc cần có óc suy luận
và óc tổ chức.
Nhưng định luật
tiến hóa bắt buộc theo thời gian mọi vật đều phải thay
đổi và do đó Bờm cũng bị bắt buộc phải tập thích nghi
với những điều kiện mới phức tạp hơn mỗi khi hoàn cảnh
đổi thay. Nhưng vì bản chất vốn chậm chạp, vụng về và
khờ khạo nên trong cách nhìn vấn đề và giải quyết vấn
đề Bờm thường hay ngộ nhận và khi thực hiện thì dễ
gây ra hư hỏng. Tuy nhiên vì thương cái bản chất hiền lương
của Bờm nên người ta không nỡ trách Bờm cũng như người
ta không bao giờ trách một đứa trẻ về những cái vụng
dại của nó trước cuộc đời.
2.-THẰNG CUỘI NGỒI GỐC CÂY ÐA
Cái tên Cuội phát
xuất từ đâu thì hình như không ai rõ nhưng cái hình ảnh
thằng Cuội ngồi dưới gốc cây đa mơ mộng và cái thành
ngữ "nói dối như Cuội" hay Cuội được hiểu như một tính
từø đồng nghĩa với ranh mãnh dối trá thì ai cũng biết.
Thằng
Cuội ngồi gốc cây đa
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ới ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời ông Trăng
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ới ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời ông Trăng
Theo như những giai
thoại về Cuội thì Cuội là một đứa bé mồ côi cha nên
được chú đem về nuôi. Do tính ham chơi nên khi được chú
giao cho việc chăn trâu thì Cuội thường hay chểnh mảng bỏ
mặc trâu ăn lúa. Tuy lanh lẹ và có lẽ cũng do thích đua đòi
nhưng nhẹ dạ nên có lần Cuội cũng đã nghe theo lời xúi
dại của chúng bạn giết cả trâu của chú làm thịt ăn với
nhau cho nên mới sinh ra lắm chuyện rắc rối cho mình. Ðể
tránh né bịï trừng phạt, Cuội đã phải nói dối và dùng
mưu trí lừa gạt để gỡ mình ra khỏi cơn nguy khốn mà không
cần biết hệ quả của sự dối trá, do đó từ sự lừa
gạt dối trá này đẻ ra sự lừa gạt dối trá khác khiến
cho Cuội cứ phải quanh quẩn với sự dối trá mãi mãi.
Tuy Cuội có tỏ
ra khôn lanh và biết đua đòi nên có nhiều nhu cầu hơn Bờm
nhưng thật ra Cuội cũng là mẫu người mang một bản chất
đơn sơ nông nổi như Bờm, cho nên chỉ biết giải quyết
nhu cầu theo đua đòi hiện tượng nhằm thỏa mãn tự ái chứ
không biết giải quyết nhu cầu dựa trên căn bản óc tổ
chức bằng những phương thức hợp lý. Do đó Cuội cũng chỉ
biết dùng mưu trí để ứng phó với hoàn cảnh qua phương
diện hiện tượng chứ không tìm hiểu bản chất của sự vật. Cũng vì không suy luận theo luận lý mà bằng liên tưởng
của tri giác, lại hay mơ mộng hão huyền cho nên mới có câu
truyện Cuội ngồi ôm gốc đa ở cung trăng.
Truyện kể có
một ông Tiên cho vợ Cuội một cây đa và bảo đem về trồng
trước sân. Ông Tiên căn dặn vợ Cuội phải tưới nước
cho cây hàng ngày, nhưng không được tưới nước dơ bẩn
vào gốc cây. Vợ Cuội dặn lại chồng điều này nhưng vốn
hay nghễng ngãng nên một hôm Cuội quên mất lời vợ dặn
bèn ra ngay gốc cây đa và tiểu tiện vào đấy. Cây đa liền
bật rễ rồi từ từ bay lên cao. Cuội hoảng quá lại sợ
mất cây đa của vợ bèn ôm lấy gốc cây cố níu trở lại,
nhưng cây vẫn tiếp tục bay lên mãi và bay thẳng về cung
trăng, mang luôn cả Cuội theo để từ đấy đêm đêm Cuội
lại ngồi ở gốc đa trên cung trăng nhìn về trần gian.
Phải nói là dù
sao thì bản chất Cuội vẫn không phải là xấu vì Cuội không
hề có chủ tâm hại người khác để mưu cầu lợi cho mình
mà chỉ muốn cho mình cũng được như người, nhưng vì Cuội
không có cách giải quyết hợp lý ước muốn của mình cho
nên mới sinh ra "túng làm càn". Rồi cũng vì làm bậy mà Cuội
đã vô tình làm phương hại đến người khác đưa đến bản
thân gặp phải rắc rối nên Cuội lại mới nảy sinh ra "cái
khó nó bó cái khôn". Nhưng cái khôn của Cuội cũng rất giới
hạn vì chỉ nhằm mục đích gỡ cho mình được "tai qua nạn
khỏi" khi hoàn cảnh bế tắc chứ không nhằm sáng tạo để
đáp ứng nhu cầu phát triển về lâu dài của mình.
Tóm lại thì thằng
Bờm hay chú Cuội đều là những nhân vật điển hình trong
xã hội Việt nam. Cả hai đều mang trong mình những ưu điểm
bẩm sinh nhưng đồng thời cũng có vô số nhược điểm kết
thành từ những va chạm với cuộc sống. Bờm thường thụ
động nên hướng nội, muốn bảo thủ; còn Cuội năng động
hơn nên có vẻ như hướng ngoại, nhưng thực ra thì Cuội
cũng chỉ ứng phó theo bản năng để bảo tồn mình chứ không
phát huy được bản ngã của mình. Do đó mà chúng ta cũng
có thể nói Bờm và Cuội chỉ là sự biểu hiện của hai
cách thế phản ứng trước hoàn cảnh sống tác động trên
con người, trong đó mọi hành động đều do "đói đầu gối
phải bò". Tuy nhiên vì chỉ biết suy nghĩ bằng cái bụng "suy
bụng ta ra bụng người" chứ không thích suy nghĩ bằng đầu
óc nên không phát triển được óc duy lý và vì thế mà Bờm
và Cuội cứ luẩn quẩn mãi trong những bế tắc của chính
mình mà không làm sao giải quyết được.
3.-TRĂM NĂM TRỒNG NGƯỜI
Sử Trung quốc có
kể chuyện xưa khi được vua Tề vấn kế về quốc sự, Quản
Trọng đã đáp : "Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc; thập
niên chi kế, mạc như thụ mộc; bách niên chi kế, mạc như
thụ nhân." ( Kế hoạch một năm, không gì bằng trồng lúa
; kế hoạch mười năm, không gì bằng trồng cây; kế hoạch
trăm năm, không gì bằng trồng người.) Cái quan niệm trồng
người này không phải chỉ riêng có Quản Trọng mới chú
trọng đến mà phải nói kể từ khi con người biết tổ chức
đời sống xã hội là con người đã nghĩ đến việc trồng
người.
Triết gia Platon
thời Cổ Hy lạp khi bàn về thể chế Cộng hòa cũng đã phác
họa ra một xã hội lý tưởng phải là một xã hội được
phân công theo lý trí, do đó phải được phân giai cấp và
cũng đã đề ra những mẫu người xã hội cho từng giai cấp.
Xã hội Ấn độ xưa kia đã từng được phân chia thành năm
đẳng cấp khép kín với năm mẫu người khác nhau. Xã hội
Trung hoa của thời đại quân chủ phong kiến cũng đã đề
ra những mẫu người cho mỗi thành phần xã hội như sĩ, nông,
công, thương, binh... Thời hiện đại thì có bao nhiêu triết
thuyết hay chủ nghĩa là có bấy nhiêu mẫu người xã hội,
nhưng đáng kể nhất trong thời gian vừa qua là hai mẫu người
đối kháng được hai thế lực tranh quyền bá chủ hoàn cầu
đem ra áp dụng vào tổ chức xã hội, đó là mẫu người
cộng sản theo chủ thuyết Marx-Lenin vàngười công dân tự
do theo Hiến pháp quy định của Hoa kỳ.
Vì mẫu người
lý tưởng là sự kết hợp những tiêu chuẩn theo lý trí hay
giá trị tinh thần, cho nên đó chỉ là những mô hình do con
người quan niệm nên bao giờ cũng mang tính chất trừu tượng,
khác với con người cụ thể, và mỗi khi con người thay đổi
quan niệm thì mẫu người lý tưởng cũng thay đổi cho phù
hợp với những tiêu chuẩn giá trị mới được con người
đề ra, khác với mẫu người điển hình thường có tính
cách xã hội nên sẽ vẫn còn tồn tại nếu những điều
kiện tâm lý và xã hội tác động chưa thay đổi.
Xã hội Việt
nam qua hai ngàn năm huyền sử, con người đã sống và suy nghĩ
như thế nào thì không có sử liệu để chứng minh. Nhưng
kể từ khi bắt đầu Bắc thuộc thời đại thì người dân
Việt cũng đã phải chấp nhận nền văn hóa Trung hoa tác động
lên trên nếp sinh hoạt của mình để biết đua đòi đi tìm
tri thức như câu ca dao:
Chẳng tham vựa lúa anh đầy
Tham dăm ba chữ cho tày thế gian
Tuy nhiên trong
cái nhìn thực tế và thiển cận bằng kinh nghiệm của người
bình dân, được thể hiện qua hình ảnh thằng Bờm và chú
Cuội thì tri thức và những lễ nghĩa hình thức con người
nghĩ ra để vẽ vời thêm cho đời sống không cần thiết
bằng cái ăn là cái bảo đảm cho sự sống con người. "Có
thực mới vực được đạo". Mà cái ăn của kẻ bị trị
thì lại nằm trong tay kẻ thống trị, những kẻ rao giảng
những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ nhưng lại đang lăm le
cướp đi cái lẽ sống của Bờm và Cuội. Còn Bờm và Cuội
thì cứ phải "còng lưng làm cho ngỏng lưng ăn" nên không bao
giờ ngóc đầu lên được. Do cái kinh nghiệm thực tế này
chi phối nhãn quan của mình mà người dân Việt cũng thường
khi mâu thuẫn trong những nhận định của mình như:
Quân tử là quân tử Tàu
Ăn cơm thì ít ăn rau thì nhiều
Ðôi khi lối nhận
định này còn được biểu lộ một cách mỉa mai chua chát
hơn như:
Ra đường võng giá nghênh ngang
Về nhà hỏi vợ, cám rang đâu mày
Cám rang tôi để cối xay
Hễ chó ăn mất thì mày với ông
Chính vì không đặt
nặng vấn đề tri thức như được biểu lộ qua cách đánh
giá: "nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì
sĩ " mà đôi khi người dân Việt không mấy tin vào những
tư tưởng cao siêu và đã biến thái những mẫu người lý
tưởng thành những con người "ngu si hưởng thái bình" hay
"quân tử nói đi nói lại" để sống còn.
Nếu nhờ biết
kiên trì với bản chất của mình mà người dân Việt không
bị người Trung hoa đồng hóa thì trái lại, vì cái nề nếp
suy nghĩ và hành xử kiểu thằng Bờm và chú Cuội ăn sâu
vào tiềm thức khiến cho con người không phát triển được
tri thức nên vẫn cứ loay hoay với những bế tắc và đành
cứ phải "giật gấu vá vai" khiến cho con người không bao
giờ thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của bất công và đói
nghèo, còn đất nước nếu không bị nạn ngoại xâm tàn phá
thì dân tộc cũng lại quay ra chia rẽ, xâu xé nhau để mà
tranh sống.
Khi người Pháp
sang xâm chiếm Việt nam đã dùng cái chiêu bài đem ánh sáng
của nền văn minh Tây phương ra khai hóa cho một dân tộc bị
cho là man di, nhưng với chính sách thực dân khai thác thuộc
địa, những người dân Việt đói ăn vẫn thấy mình nai lưng
ra làm giàu cho kẻ thống trị chứ chưa bao giờ thấy được
ánh sáng của tư tưởng Tự do, Bình đẳng rọi tới tâm hồn.
Vì thế mà khi chủ nghĩa thực dân suy yếu và đau lòng trước
cảnh hai triệu đồng bào chết đói thì người dân Việt
cũng đã rủ nhau vùng lên đập nát phố phường , tay tầm
vông mã tấu để đi theo tiếng gọi của núi rừng âm u "thề
phân thây uống máu quân thù"* mà không cần biết rồi đây
mình sẽ xây dựng ngày mai bằng cách nào và ra sao.
Hồ chí Minh đã
mang chủ nghĩa Cộng sản vào Việt nam với sự mơ tưởng
làm một cuộc cách mạng xã hội trên mảnh đất ngàn đời
phong kiến cũng đã không ngớt nhắc đi nhắc lại cái quan
niệm trồng người. Tuy nhiên với bản chất Bờm và Cuội
tiềm tàng trong người, Hồ chí Minh cũng đã không thoát ra
khỏi cái vòng suy luận theo cảm quan nên những mục tiêu chính
trị của dân tộc như "Ðộc lập, Tự do" vẫn gắn liền
với những hình ảnh cụ thể như "cơm ăn áo mặc", và khi
muốn tỏ ra mình là kẻ chỉ biết hy sinh cho cách mạng thì
lại bộc lộ những ý tưởng mâu thuẫn với mục tiêu của
cách mạng mà chỉ là mơ ước của một con người chỉ biết
quanh quẩn với những mơ ước của một xã hội cổ sơ: "...làm
một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu
cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi,
em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi..."
(lời tuyên bố của Hồ chí Minh trong một buổi gặp gỡ với
các nhà báo đầu năm 1946).
Chính vì thế
mà đa số người dân Việt đã đón nhận cái gọi là cuộc
Cách mạng không phải như một khởi điểm cho sự cải tạo
xã hội mà như là một cơ hội để thỏa mãn ước mơ thấy
mình được no cơm ấm áo và duy trì cái bản chất mơ mộng
viển vông của mình. Sự mơ tưởng ngây ngô đó đã vô tình
kéo con người về lại bản năng mà không còn phát triển
được tri thức. Chính vì cứ "thả mồi bắt bóng" mà người
dân Việt đã vô tình bị tập đoàn cộng sản lôi kéo vào
những hy sinh phi lý mà không biết vì sao.
Người cộng sản
nhờ áp dụng cái ranh mãnh và dối trá của Cuội nên đã
thành công trong âm mưu nắm lấy thời cơ và loại bỏ mọi
đối thủ, nhưng cũng vì suy nghĩ như Cuội nên họ đã không
giải quyết được vấn đề kinh tế. Thêm vào đó, do áp
dụng những chính sách khủng bố và phá hoại theo kiểu "
không được ăn thì đạp đổ " để nắm lấy quyền hành
đã làm cho người dân trở thành bần cùng. Còn mộng tưởng
xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa theo những
ý niệm trừu tượng và không tưởng mà họ vay mượn từ
bên ngoài để thiết lập một xã hội mới thực ra chỉ là
cái áo khoác duy lý của thời đại mà họ mượn để che
đậy cho cái bản chất Bờm và Cuội phản duy lý của mình.
Khi người Mỹ
có ý định biến Miền nam Việt nam thành một tiền đồn
chống cộng cũng đã cho du nhập cái quan niệm Tự do Dân chủ
pháp trị kiểu Hoa kỳ vào Việt nam và cũng đã cố gắng
trồng người bằng cách đào tạo một tầng lớp trí thức
mới nhưng vì cái triết học thực tiễn của người Mỹ lại
đi kèm với thế lực của đồng tiền cùng với sự thí nghiệm
những chính sách "thử và sai lầm", nhất là hành động can
thiệp bằng quân sự đã khiến cho cái quan niệm Tự do Dân
chủ pháp trị không bắt rễ được trong những tâm hồn người
dân Việt giàu tình cảm quê hương nhưng mang mặc cảm đói
nghèo và không quen với duy lý, do đó nếu không tỏ ra có
thái độ bài bác thì lại chỉ nhìn thấy nhu cầu hiện tượng
và chạy theo nhu cầu hiện tượng. Ðiều này đã đưa đến
nhiều vụ chính biến tạo cho Miền Nam trở thành rối loạn
và càng lệ thuộc vào Mỹ, còn ở Miền Bắc thì người Cộng
sản có cớ để khai thác thêm cho cái tinh thần yêu nước
của người dân với chiêu bài "đánh cho Mỹ cút" để bắt
nhân dân phải hy sinh nhiều hơn và càng lao mình vào chiến
tranh. Rốt cuộc Miền Bắc thì kiệt quệ, còn Miền Nam thì
một Tổng thống bị giết, một triệu người bị thương
vong vì bom đạn và một quân đội đến ngày bị bức tử,
mới ngỡ ngàng không biết mình đã chiến đấu cho ai, và
cảm thấy công lao của mình chỉ là công dã tràng xe cát.
Suốt hơn nửa
thế kỷ kể từ ngày dân tộc Việt nam vùng lên phá bỏ xích
xiềng nô lệ của thực dân và phát xít, mơ ước làm một
cuộc cách mạng biến dân tộc thành phú cường, nhưng cũng
vì chỉ biết lo phá hoại mà không biết xây dựng cho nên
" gậy ông lại đập lưng ông" khiến cho đất nước "đã
nghèo còn vướng phải cái eo." Rốt cuộc nền kinh tế càng
ngày càng lâm vào vòng phá sản và xã hội thì trở thành
băng hoại, còn con người thì đánh mất niềm tin những gì
được coi là lý tưởng và hầu như cũng đang đánh mất luôn
cái bản năng hiền lương của mình.
4.-ƯỚC MƠ LÀM PHÒ MÃ KHÔNG KHỐ
Huyền thoại Việt
nam có một câu truyện bộc lộ một quan niệm về nhân sinh
rất độc đáo của dân tộc Việt nam, đó là chuyện Chữ
đồng tử lấy công chúa con vua Hùng.
Thời vua Hùng
trị vì nước Văn lang, cơ cấu xã hội chưa được tổ chức
thành hệ thống phân minh và chặt chẽ. Giữa Vua hay các Lạc
hầu, Lạc tướng và dân chúng hình như cũng không có những
sự cách biệt đáng kể. Cứ xem như việc cho rằng Chữ đồng
tử lấy được công chúa con vua Hùng thì ta cũng có thể đoán
được nếp sống bình dị vào thời ấy.
Câu truyện thật
giản dị nhưng lại mang một ý nghĩa nhân bản rất lớn.
Hai nhân vật trong truyện đã đến với nhau trong mối tương
quan con người với con người ban sơ chứ không phải con người
đã bị phân hóa và ràng buộc vào trong những ước lệ xã
hội đặt ra. Và đây cũng có lẽ là thời đại mà con người
dễ tìm thấy hạnh phúc nhất.
Người dân Việt
nam ngày nay cho dù đã trải qua bao nhiêu biến đổi và đang
sống trong kỷ nguyên điện tử, nhưng vì không đuổi kịp
nền văn minh duy lý hoặc do cảm thấy mệt mỏi vì những
nhu cầu do xã hội duy lý gây ra nên nhiều khi cũng đâm ra
mơ ước trở về với một thời đại Hùng vương xa xưa,
khi con người chưa bị vong thân vì những quan niệm của lý
trí mà chỉ biết sống theo tình người. Ðiều này phải chăng
cũng là một minh chứng cho thấy trong tâm hồn người Việt
nam vẫn tiềm tàng cái bản chất Cuội và Bờm không ít thì
nhiều.
Nếu nhìn vào
hình ảnh thằng Bờm và chú Cuội để tìm hiểu mong muốn
của người dân Việt thì chẳng qua cũng chỉ là được ăn
no và được sống yên lành. Tuy nhiên cả hai nhu cầu cơ bản
trên của Bờm và Cuội vẫn chưa bao giờ được thoả mãn
mà Bờm và Cuội lại không chịu thoát ly ra khỏi cái nề
nếp cố hữu của mình nên không bao giờ giải quyết được
vấn đề một cách cơ bản. Cái nghịch lý trong tâm hồn Việt
nam là vẫn thấy được cái khuyết điểm của mình qua hình
ảnh thằng Bờm và chú Cuội nhưng lại vẫn cứ thích bám
víu vào những ước mơ tưởng tượng hay chạy đuổi theo
nhu cầu hiện tượng một cách chủ quan và thiển cận chứ
không thích phân tích và suy luận để cải đổi chính mình.
Có thể nói về
phương diện tình cảm, con người Việt nam rất đáng tự
hào về tình yêu đất nước và đồng bào nhưng về phương
diện lý trí, cái tinh thần tiêu cực trong sự đi tìm một
sự đổi mới xã hội đã làm cho trong suốt quá trình lịch
sử, mỗi khi có sự tiếp xúc với một nền văn hóa khác
khiến cho điều kiện sống bị ảnh hưởng, người dân Việt
dù có miễn cưỡng phải chấp nhận những đổi thay nào đó,
nhưng trong thâm tâm vẫn xem đó chẳng qua cũng chỉ là hiện
tượng nhất thời, nên không bao giờ cảm nhận thấy sự
cần thiết phải cải tạo chính mình để xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn.
Qua bao nhiêu ngàn
năm tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa
ưu thắng khác nhau tác động vào đời sống xã hội, người
dân Việt vẫn quen nhìn sự vật qua hiện tượng và sống
theo con người hiện sinh đầy duy cảm của mình cho nên chưa
bao giờ chấp nhận tinh thần duy lý, do đó mà nếu không bị
cái nhu cầu ăn thúc bách thì cũng bị mê hoặc trong những
nhu cầu hiện tượng cấp thời khiến cho không thể nhìn thấy
cái tiến trình của một sự nỗ lực hợp lý lâu dài để
giải quyết vấn đề. Chính vì thế mà muốn làm một cuộc
cách mạng xã hội thực sự, người Việt nam cần phải biết
cách mạng tư duy song song với việc giải quyết vấn đề
kinh tế, nếu không thì cho dù áp dụng học thuyết nào đi
nữa cũng dễ sinh ra biến thái để trở thành lệch lạc đưa
đến sự đổ vỡ hoặc không mang lại thành công.
ĐOÀN
VĂN KHANH
*
Lời nguyên thủy trong bài Tiến Quân ca của Văn Cao
No comments:
Post a Comment