Nếu mỗi người
có cái triết lý riêng của mình thì mỗi một dân tộc cũng
phải có một cái triết lý riêng của dân tộc đó. Dĩ nhiên
khi nói đến cái triết lý này, không có nghĩa là nói đến
những tư tưởng đã được hệ thống hóa bằng lý trí suy
luận như trong những hệ thống triết học của các triết
gia, mà chỉ là những biểu lộ tản mạn về vũ trụ, con
người và cuộc đời. Những biểu lộ này tuy không hẳn là
những quan niệm minh nhiên, nhưng vẫn ngấm ngầm tác động
lên hành vi xã hội của con người, cho dù con người có ý
thức đến điều đó hay không.
Qua kinh nghiệm
sống, con người Việt nam từ hàng ngàn năm nay đã giãi bày
tâm tư tình cảm của mình vào những bài ca dao hay câu truyện
cổ tích để cho mọi người cùng truyền tụng. Khi con người
truyền tụng với nhau những bài ca dao hay những câu truyện
ấy thì chính con người cũng đã mặc nhiên bị những tâm
tư tình cảm đó ảnh hưởng vào tâm tưởng khiến cho người
ấy cũng có những lối hành xử mang đặc tính của những
tâm tư tình cảm được xem như là chung này. Do đó, muốn
tìm hiểu cái triết lý nhân sinh của dân tộc, chúng ta không
thể nào không xét đến những tác phẩm của nền văn học
dân gian, vì chính nơi đây mới là tấm gương thực sự phản
ánh cái triết lý ẩn tàng của dân tộc.
Từ nhận định
này, một bài vè Con Voi, một bài ca dao Thằng Bờm, một câu
truyện Ba anh học trò dốt làm thơ Con Cóc v.v... đều có thể
xem như đó cũng là những tác phẩm triết lý vì trong đó
chứa đựng những cái nhìn hoặc những biểu lộ của thái
độ về sự vật, con nguời và cuộc đời. Và một trong những
biểu lộ triết lý bàng bạc nhưng cũng rất phổ cập trong
dân gian có thể nói là cái triết lý được gói ghém trong
câu truyện Bài thơ Con Cóc.
1.- BÀI THƠ TUYỆT TÁC VỀ CON CÓC
Truyện kể rằng
có ba anh học trò dốt nọ rủ nhau cùng làm một bài thơ.
Ðang bí chưa nghĩ ra đề tài gì thì bỗng có con cóc xuất hiện. Một anh thấy thế liền ứng khẩu đọc lên:
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra.
Anh thứ nhì nhìn
thấy cóc sau khi nhảy ra khỏi hang thì ngồi thù lù một chỗ,
nên cũng đọc ngay:
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó.
Ðến lượt anh thứ
ba chưa biết tiếp nối bài thơ như thế nào thì chợt thấy
cóc ngồi chán lại nhảy đi, bèn ngâm luôn:
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
Làm xong mấy câu
thơ trên, ba anh học trò lấy làm đắc ý cùng cười lăn ra
mà chết.
Ðã là người
Việt nam thì không thể nào không biết câu truyện cười này,
cũng như không ai là không thuộc bài thơ Con Cóc. Thông thường
thì mọi người vẫn lấy câu truyện này để cười cái dốt,
cái dở, cái dởm đời của những kẻ bất tài mà lại ham
học đòi văn chương thi phú. Tuy nhiên nếu suy nghĩ sâu xa
hơn một chút, chúng ta thấy câu truyện trên có một ngụ
ý triết lý, và tôi cho rằng đó cũng chính là cái triết
lý tiêu biểu của dân tộc Việt nam.
Cũng giống như
vô số những câu truyện dân gian, không ai có thể xác định
được tác giả cũng như thời điểm câu truyện được sáng
tác. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung thì câu truyện phải xuất
hiện sau khi dân tộc Việt nam đã từng bị Trung quốc đô hộ, văn hóa và học thuật của người Hán được áp đặt
vào xã hội Việt nam và xã hội đã đi vào tổ chức có kỷ
cương theo mẫu mực Trung quốc nên mới có học trò nung kinh
nấu sử và đua đòi thi phú.
Dân tộc Việt
từ thời lập quốc, trải qua 18 đời vua Hùng là một thời
gian dài hơn hai ngàn năm, nhưng tất cả những gì còn truyền
lại cũng chỉ là huyền thoại. Suốt thời gian này, trình
độ tri thức vẫn còn tản mạn trong những tin tưởng phiếm
thần chứ chưa tiến lên lãnh vực siêu hình của lý trí suy luận. Do đó khi bị người Trung hoa đô
hộ, người Việt
nam tiếp xúc với văn hóa phương Bắc, thì bị ngay nền tư
tưởng và học thuật của quốc gia này khống chế đến độ
sau khi đã giành lại được quyền tự chủ, giới sĩ phu vẫn
tiếp tục bị những hệ tư tưởng Trung hoa chi phối nên đã
không sáng tạo được một hệ tư tưởng nào riêng cho mình,
mà hầu như chỉ lặp lại những tư tưởng kinh điển của
Trung hoa được coi như là mẫu mực.
Nhưng đó là nói
riêng về giới sĩ phu. Ðối với người Việt nam nói chung
thì khi tiếp xúc với nền văn hóa phương Bắc cũng là lúc
dân tộc Việt nam phải làm nô lệ cho Trung quốc. Chính sách
cai trị hà khắc của quan lại Trung hoa cũng như những hành
động bóc lột dân lành của đám người Tàu mang đầu óc
thương mại sang sinh sống trên đất Việt đã gây ra không
biết bao nhiêu là kinh nghiệm thương đau và hãi hùng cho dân
tộc Việt.
Vì bản chất
hiền lành cho nên người Việt nam vẫn thích co cụm lại với
nhau mà sống, và tìm cách an ủi nhau bằng tình cảm hơn là
suy luận tìm kiếm phương thức để hành động. Do đó, để
có thể sống còn, dân tộc Việt nam chỉ còn cách duy nhất
là nhẫn nhục chịu đựng. Tuy nhiên, trong tâm tưởng, người
Việt nam vẫn âm thầm chống lại ảnh hưởng của Trung quốc,
vì sự xâm nhập của nền văn hóa này cũng đồng nghĩa với
sự thống trị và sự biến đổi nếp sống cổ truyền của
dân tộc. Như vậy, có thể nói người đặt ra câu truyện
này phải là một người có tinh thần dân tộc, muốn chống
lại sự lệ thuộc Trung hoa, nên đã bày tỏ những nhận định
của mình qua hình thức một câu truyện khôi hài để có thể
phổ biến dễ dàng. Người nghe truyện dù không nhận thức
phần tư tưởng một cách minh nhiên, nhưng vẫn bị cái tinh
thần của câu truyện tác động vào nếp suy nghĩ và hành
xử của mình một cách vô thức.
Nhân vật trong
câu truyện là ba anh học trò có nghĩa là những người vẫn
thường được xem như là kẻ đi tìm tri thức và nắm được
tri thức. Cái đề tài để làm thơ cũng giống như cái tri
thức về vũ trụ mà con người muốn tìm. Nhưng ba anh học
trò vốn dĩ dốt, cho nên không nghĩ ra được cái đề tài
nào khác hay hơn là con cóc đang xuất hiện trước mặt. Vậy
thì ba anh học trò kia cũng có thể được xem như là tượng
trưng cho đại đa số người dân Việt nam, không thích suy luận, nên không nhìn thấy những nguyên lý cao siêu trừu tượng
như giới sĩ phu Trung quốc, mà chỉ nhìn thẳng vào sự vật
đang có trước mặt.
Theo cách phân
tích này, chúng ta có thể nói nội dung câu truyện muốn bày
tỏ một thái độ chống lại tri thức triết học có tính
chất duy lý và trừu tượng. Nhưng khi một kẻ nào đó chống
lại tri thức triết học duy lý, thì người đó cũng đã rơi
vào cái triết lý bất khả tri, vì con người không thể nào
tránh khỏi triết lý như Karl Jaspers đã từng viết trong Ðường
vào Triết học. Do đó mà cái triết lý của câu truyện vẫn
còn.
Câu truyện này
cũng biểu lộ một khuynh hướng hoài nghi về bản chất hay
yếu tính của sự vật, phát xuất từ sự nghi ngờ dân tộc
thống trị, từ đó đâm ra nghi ngờ luôn tất cả những gì
thuộc về tư tưởng cao siêu mà dân tộc thống trị đề ra, nên chỉ còn để ý tới cái gì mình tri giác được, tức
là hiện tượng. Những điều mà ba anh học trò mô tả trong
bài thơ Con cóc có thể coi như là những nhận định có tính
cách hiện tượng luận và hiện sinh về vũ trụ và con người.
Nguyên ủy của vũ trụ như là cái hang đầy bí hiểm, con
người không thể nào tìm hiểu. Còn sự hiện hữu của cái
thế giới này cũng chỉ như sự xuất hiện của con cóc trước
mặt ba anh học trò. Tất cả những gì có thể biết được
đều là hiện tượng, giống như mấy anh học trò chỉ nhìn
thấy được "con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy
đi". Cũng có thể xem câu truyện này như một nhận định
về sự hiện hữu của con người. Con người được sinh ra,
sống trên đời, rồi lại chết đi, chẳng khác nào như lời
mô tả sự xuất hiện của con cóc ở trên. Con người cũng
không hề biết nguyên do cũng như cứu cánh của sự hiện
hữu của mình trong vũ trụ, cũng như không thể nào can thiệp
vào những điều kiện gắn liền với sự hiện hữu đó.
Hình như tất cả đều xảy ra theo một định luật tất yếu
nào đó.
2.- NHÂN SINH QUAN THẰNG BỜM
Quan niệm này còn
được biểu lộ trong bài vè Con Voi mà nhiều người vẫn
thường coi như là một bài hát dành cho trẻ em, không có nghĩa
gì cả, nhưng thật ra đó cũng là một cái nhìn triết lý
về cuộc đời, vì cái câu chuyện con voi kể mãi như một
điệp khúc không ngừng này cũng chính là một nhận thức
về cái vòng tuần hoàn của các hiện tượng trong vũ trụ.
Con vỏi con voi
Cái vòi đi trước
Hai chân trước đi trước
Hai chân sau đi sau
Cái đuôi đi sau rốt
Tôi ngồi tôi kể nốt cái chuyện con voi...
Con vỏi con voi...
Nhưng con người
thì hữu hạn, cho nên cái vòng hiện tượng dù có liên tục
mãi thì khả năng con người cũng chỉ tri giác được trong
phạm vi giới hạn hiện hữu của mình mà thôi. Do đó cái
biết của con người cũng chỉ như anh chàng kể chuyện con voi, quanh quẩn với một số hiện tượng tái diễn không bao
giờ ngừng, không biết bắt đầu từ bao giờ và chấm dứt
ở đâu. Con người chỉ biết rằng, hiện tượng ta hiện
hữu là do cha mẹ ta sinh ra ta. Cha mẹ ta cũng do ông bà ta mà
có. Ta lại sinh ra con ta, và con ta sẽ sinh ra cháu ta. Những
thế hệ có trước ông bà ta, cho dù ta có muốn biết cũng
không biết được, vì lúc ấy ta chưa sinh ra. Ta cũng không
sống lâu để có thể nhìn thấy những thế hệ tiếp sau
thế hệ con cháu ta. Thành thử trong cái chuỗi hiện tượng
của những hiện hữu tiếp nối không ngừng ấy, ta cũng chỉ
có thể biết được đến thế là cùng.
Cái hình ảnh
con voi di chuyển này cũng đồng thời nêu lên một ý thức
về trật tự trong hiện tượng, đưa đến ý tưởng về một
sự an bài. Cái vòi phải đi trước hết. Hai chân trước phải
đi trước hai chân sau, và cái đuôi phải là sau cùng, không
thể nào có sự thay đổi hay đảo lộn. Hiện tượng hiện
hữu của con người trong trần gian này cũng luôn luôn bị
ràng buộc vào một số điều kiện nhất định khiến cho
con người không thể nào hành động một cách khác hơn.
Nhưng tại sao
con người hiện hữu thì hình như lại là câu hỏi mà người
Việt nam không muốn nghĩ tới mà chỉ nghĩ tới cái thân phận
con người trong cuộc sống hiện tại. Ngoài cái ý thức về
tính cách hữu hạn của kiếp con người được sinh ra, lớn
lên, già đi, rồi phải chết, trong đó còn kèm theo không biết
bao nhiêu là hệ lụy như đói rét, đau khổ, bệnh tật v.v...,
nhưng vẫn luôn luôn bám vào cuộc sống, và lúc nào cũng thấy
mình cứ phải lo lắng và vất vả vì mưu sinh. Thân phận
con người trong cuộc đời, nhất là khi con người đó lại
là dân nước nô lệ, cũng chẳng khác nào thân phận con kiến
đậu phải cành cây cọc trong bài ca dao Con kiến.
Cái kiến mày đậu cành đa
Ðậu phải cành cọc, leo ra leo vào
Cái kiến mày đậu cành đào
Ðậu phải cành cọc, leo vào leo ra
Vì thân phận hiện
sinh của con người luôn luôn bị giới hạn trong một số
điều kiện nhất định, cho nên nhịn nhục để sống còn
như đa số vẫn làm, hoặc là "theo voi ăn bã mía", "theo đóm
ăn tàn" đám người Trung hoa cai trị để mưu cầu chút bã
vinh hoa như một số người khác, thì con người vẫn không
bao giờ thoát ra khỏi những điều kiện giới hạn của kiếp
người. Do nhận định này mà người Việt nam mỗi khi không
hiểu được nguyên nhân vì sao của bất cứ một sự việc
gì, vẫn thường hay đổ cho số mệnh xui ra, và hay tin vào
định mệnh.
Vậy thì hệ luận
của cái ý thức thân phận này là người Việt nam không thích
đua tranh tìm kiếm những gì cao xa hơn là những nhu cầu thiết
thực trước mắt, cho nên mới đưa đến cái quan niệm thực
tế thiển cận được bộc lộ trong bài ca dao Thằng Bờm.
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi hòn xôi, Bờm cười
Bờm là một kẻ
chỉ có mỗi cái quạt mo chẳng đáng giá gì cả. Phú ông
là bậc cao sang quyền quý, có trong tay đầy đủ mọi thứ,
nên không thấu hiểu được cái tâm trạng về thân phận
như Bờm. Như thế thì những thứ như ba bò chín trâu v.v...
mà phú ông đề ra làm vật trao đổi với cái quạt mo của
Bờm có cần thiết cho Bờm không, hay chỉ là những cái phú
ông đưa ra nhằm phỉnh gạt Bờm? Vì ý thức được thân
phận mình nên Bờm chỉ cần cái gì có thể đáp ứng được
nhu cầu thực tế của mình hơn là những thứ xa hoa, cho nên
khi nói tới nắm xôi là cái cụ thể gần gũi với Bờm hơn
cả thì Bờm mới cười ngụ ý thỏa thuận.
Trong lãnh vực
tri thức cũng thế. Người dân thường chỉ thấy có cuộc
sống trước mắt, nhưng cuộc sống đó thì lúc nào cũng đầy
dẫy lo âu và bất trắc, trong khi triết học thì lại toàn
bàn chuyện cao siêu của tư tưởng, đưa ra những ý niệm
trừu tượng xa rời thân phận thực tế của con người. Vậy
thì những tư tưởng học thuyết mà người Trung hoa dùng làm
nền tảng để xây dựng xã hội và uốn nắn con người có
phải là chân lý không, hay cũng chỉ là những điều con người
đặt ra để lừa dối và ép buộc con người vào khuôn khổ
của guồng máy thống trị? Vốn quen sống dựa vào mối quan
hệ tình cảm hơn là coi xã hội phải được đặt trên căn
bản của những nguyên tắc lý trí, người Việt nam lúc nào
cũng coi trọng mối tương quan giữa những con người cụ thể
nên đã từ chối sự suy luận triết học, chỉ vì những
học thuyết triết học lúc nào cũng muốn gò bó con người
vào trong mô hình của những ý niệm trừu tượng.
3.- CHÂN LÝ SỜ VOI
Từ cái triết lý
bất khả tri về nguyên ủy của sự vật và ý thức về sự
hiện hữu giới hạn của con người hiện sinh, người dân
Việt cũng cảm thấy rằng chân lý là một điều ngoài khả
năng nhận thức của con người. Vậy thì từ triết lý con
cóc, nảy sinh ra chân lý sờ voi.
Câu truyện thầy
bói xem voi có thể tóm lược như sau: Có năm anh thầy bói
mù rủ nhau đi xem voi. Gặp phải chú quản tượng thích chơi
trò oái oăm, nên chú bèn cho mỗi anh mù chỉ được rờ xem
một bộ phận của voi thôi. Một anh rờ đụng cái vòi liền
bảo con voi giống như một con giun lớn. Anh thứ nhì sờ nhằm
tai voi liền bảo con voi giống như cái quạt. Anh thứ ba sờ
trúng chân voi liền cho là voi giống như cái cột đình. Anh
thứ tư sờ phải bụng voi liền cả quyết voi như cái trống.
Anh cuối cùng sờ gặp đuôi voi liền tin là voi giống như
cái chổi. Thế là cả năm anh cãi nhau tranh phần đúng rồi
cuối cùng thì đi đến chỗ ẩu đả chỉ vì anh nào cũng
khư khư với cái biết của mình.
Câu truyện có
tính cách khôi hài nhưng thật ra đó cũng là một biểu lộ
triết lý trong vấn đề đi tìm chân lý. Con người thì hữu
hạn và khả năng tri thức cũng bị giới hạn chẳng khác
nào những anh thầy bói mù. Chân lý thì như con voi. Mấy anh
thầy bói mù không thể nào nhìn thấy voi mà chỉ sờ đụng
một bộ phận nào đó của voi thôi. Do đó mà cái hình ảnh
con voi mấy anh thầy bói mù tri giác chưa phải là voi, hơn
nữa đó lại là một tri giác bằng xúc giác chứ không phải
tri giác bằng thị giác nên không thể nào giống và đầy
đủ như là hình ảnh của thị giác ghi nhận.
Như vậy thì cái
gọi là chân lý mà con người nhận thức được bằng tri
thức bị giới hạn của mình không phải là chân lý đúng
và toàn thể mà chỉ là những nhận thức có tính chất chủ
quan và phiến diện, do đó khi kết luận những điều nhận
thức chủ quan và phiến diện ấy như là chân lý toàn thể,
con người đã xa rời chân lý thật để tin vào một chân
lý ảo tưởng. Do đó mà tất cả những học thuyết triết
học muốn cắt nghĩa toàn thể vũ trụ này cũng chẳng khác
nào những lời mô tả con voi của các anh thầy bói mù trên
đây mà thôi.
Bản chất người
Việt nam vẫn thiên về tình cảm nên thường nhìn sự vật
qua khía cạnh hiện tượng, trong khi triết học của Trung hoa
hay Ấn độ thì lại đi vào siêu hình. Do đó mà khi xã hội
được tổ chức dựa theo những quan niệm triết học đặt
trên căn bản yếu tính của lý trí suy luận thì con người
hiện sinh bị bỏ quên để biến thành con người của những
ý niệm trừu tượng. Ðây là một quan niệm không phù hợp
với tâm tư của người Việt nam.
Khi nhìn vào thực
tại thân phận của mình, người dân Việt nam lại phải đối
đầu với những kinh nghiệm khổ đau của mình mà không có
cách giải quyết nên thường quay về với những tin tưởng
hoang đường để mong cầu khẩn sự phù hộ của các thần linh, những sức mạnh tuy vô hình, nhưng hình như lại có thể
tác động trực tiếp lên cuộc sống của con người. Cũng
vì không có tinh thần duy lý, cho nên có nhiều khi nhằm giải
thích sự trùng hợp của một vài hiện tượng, người Việt
nam đã không dùng lý trí suy luận để xác định đâu là
nguyên nhân và đâu là hậu quả một cách chính xác, mà lại
thường liên kết hai hiện tượng ngẫu nhiên thành một định
luật phổ biến để biện minh cho những kết luận hoàn toàn
có tính cách võ đoán của mình, khiến cho những điều sai
lầm nhiều khi lại được coi như là chân lý. Ðiều này khiến
cho người Việt nam dễ trở thành mê tín dị đoan, không phát
triển được óc khoa học, và đó cũng là lý do khiến cho
thuật bùa chú cũng như các khoa tử vi bói toán lại lôi cuốn
đuợc mọi tầng lớp trong xã hội.
Ngoài ra, cái khuynh
hướng muốn tìm đến với những nguồn sự an ủi hơn là
tìm kiếm phương thức hành động để biến cải thân phận
cũng khiến cho người dân Việt nam thích tìm đến với tôn
giáo. Nhưng cũng vì mục đích thực tế thiển cận là nhằm
giải cứu thân phận, cho nên người Việt nam khi tin vào tôn
giáo vẫn thường hướng vào phần nghi thức cứu rỗi cho
thân phận hơn là phần tư tưởng triết lý. Ngay cả Phật
giáo khi truyền sang Việt nam và trở thành tín ngưỡng phổ
cập trong dân gian, không phải vì người dân Việt nam lĩnh
hội được cái tư tưởng vô minh cao siêu của triết học
Phật giáo, mà điều chính yếu là do lòng mong muốn được
cứu thoát khỏi vòng trầm luân nhờ vào sự từ bi của đức
Phật. Ðó mới chính là cái điều người dân Việt quan tâm.
Suốt mấy ngàn
năm sống trong nền văn minh bộ lạc, người Việt nam đã
tạo cho mình những nếp suy nghĩ cũng như tình cảm ăn sâu
vào tiềm thức. Do đó mà khi những hệ tư tưởng của Trung
hoa cũng như của Ấn độ có tác động đến nếp sống khiến
cho con người Việt nam có những tin tưởng mới, những suy
tư mới, thì những điều mới này khi phổ cập vào dân gian
đều được biến cải cho phù hợp với tâm tư tình cảm
truyền thống của dân tộc. Do đó mà trong lãnh vực tôn giáo
người Việt nam cũng không triệt để với tư tưởng triết
học của một tôn giáo nào cả mà nhiều khi còn hòa đồng
nhiều niềm tin khác nhau, đôi khi còn pha lẫn cả những mối
dị đoan của những tin tưởng phiếm thần xa xưa còn sót lại.
Có thể nói khi
trình độ tri thức của người dân Việt nam chuyển từ những
tin tưởng phiếm thần qua triết học siêu hình thì cũng là
lúc người dân trải qua kinh nghiệm thân phận nô lệ, cho
nên đâm ra oán ghét kẻ ngoại nhân thống trị. Do đó mà
người dân Việt nam mới hay có khuynh hướng bài ngoại, cũng
như cái khuynh hướng muốn phản kháng cái trật tự xã hội
xây dựng trên những ý niệm về triết học của ngoại nhân,
và nảy sinh ra cái triết lý Con Cóc. Và từ cái triết lý
Con Cóc, người dân Việt đâm ra hoài nghi mọi tri thức triết
học có tính cách trừu tượng duy lý, cho nên thường không
hoàn toàn chấp nhận những điều cao siêu từ lý trí suy luận,
và không thích đi sâu vào lãnh vực tư tưởng.
Chính vì mang trong
tâm hồn một thái độ triết lý như vậy, người Việt nam
thường tỏ ra không mấy quan tâm đến những vấn đề thuộc
lý trí mà chỉ chú trọng đến lãnh vực tình cảm trong cuộc
sống, vì chỉ có tình cảm mới thực sự xoa dịu những nỗi
khổ đau của kiếp người. Ðiều này trong quá khứ đã giúp
cho dân tộc Việt nam không bị Trung hoa đồng hóa, nhưng trong
hiện tại, thái độ thờ ơ với nền tảng duy lý lại chính
là sự cản trở cho công cuộc cách mạng hóa tư tưỏng để
xây dựng một xã hội khoa học và tiến bộ, theo những nguyên
tắc tự do và dân chủ của thời đại. Tuy nhiên, dù sao thì
cái bản chất thiên về tình cảm này, và cái triết lý hoài
nghi mọi tri thức duy lý vẫn tiếp tục làm cho người Việt
nam lúc nào cũng cảm thấy gắn bó với dân tộc mình, những
con người cùng chung một ý thức về thân phận.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment