1.- CON RỒNG CHÁU TIÊN
Dân tộc Việt nam
vốn cùng chung một nguồn gốc, cùng chung một tiếng nói,
một phong tục, có chung một kỷ niệm và nhất là cũng đã
từng trải qua trên bốn ngàn năm tồn tại kể từ thời lập
quốc. Ðó là những điều mà dân tộc Việt nam vẫn lấy
làm tự hào. Nhưng ngoài những điều đáng tự hào nói trên,
dân tộc Việt nam còn mang một niềm tự hào khác do một nguyên
nhân hoàn toàn chủ quan thuộc về tâm lý, đó là sự tác
động của tư tưởng "con Rồng cháu Tiên", phát xuất từ
huyền thoại Rồng Tiên.
Ngay từ thủa
mới cắp sách đến trường, bắt đầu học sử Việt, ai
cũng có ít ra vài lần được thầy cô kể cho nghe câu truyện
này. Tùy theo người kể, câu truyện có thể thêm bớt nhiều
chi tiết khác nhau nhưng tóm tắt các điểm chính yếu vẫn
là: Lạc Long quân vốn giòng dõi Rồng, lấy công chúa Âu cơ
thuộc giòng dõi Tiên, sinh ra cái bọc một trăm trứng, nở
thành trăm người con. Sau đó, Lạc Long quân nói với Âu cơ
rằng: mình thuộc giòng giõi Rồng nên không thể nào sống
lâu dài với Âu cơ vốn là giòng giõi Tiên. Và hai người
đã quyết định chia tay nhau. Con cái cũng được chia ra 50
người theo cha xuống biển và 50 người theo mẹ lên núi. Dân
tộc Việt nam phát xuất từ nguồn gốc đó.
Ðây là một câu
truyện có tính cách thần kỳ quái đản, nhưng từ bao đời
nay vẫn được dân Việt nam truyền tụng với nhau như một
huyền thoại nói về nguồn gốc của dân tộc mình. Sự kiện
này cho thấy câu truyện trên phải phản ánh những điểm
nào đó phù hợp với tâm lý chung của mọi người trong xã
hội nên mới được mọi người chấp nhận một cách mặc
nhiên, và do đó mang một ý nghĩa có giá trị đối với dân
tộc. Vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt nam phát xuất từ
đâu, vào thời kỳ nào, có phải là một chủng tộc thuần
nhất hay là có sự pha trộn giống của nhiều chủng tộc
khác nhau là một vấn đề còn cần nhiều nghiên cứu. Còn
câu chuyện Rồng Tiên do đâu mà có, được đặt ra từ bao
giờ thì cũng chưa có học giả nào xác định được. Tuy
nhiên dù sao thì mọi người vẫn quen dựa vào huyền thoại
này để liên kết những người Việt nam lại với nhau.
Khi giải thích
câu truyện Rồng Tiên này, cũng có người đã dựa vào triết
lý Dịch để diễn giải thành ra một quan niệm về triết
học. Rồng và Tiên có thể xem như là biểu tượng của hai
nguyên lý Âm và Dương giống như trong triết học Trung hoa
cổ đại. Sự giải thích này cho thấy người giải thích
chịu ảnh hưởng của triết học Trung quốc nên đã giải
thích câu truyện bằng những ý niệm siêu hình không hẳn
là của dân tộc. Tôi nghĩ rằng đa số người Việt nam ít
quan tâm đến những vấn đề siêu hình dựa trên lý trí suy
luận mà chỉ cảm nhận phần ý nghĩa của hai hình ảnh Rồng
và Tiên có thể mang lại cho tất cả mọi người.
Có thể nói là
dân tộc Việt nam vốn mang nặng đầu óc mê tín dị đoan,
phát xuất từ những tin tưởng phiếm thần của buổi con
người còn sơ khai, sợ hãi trước những hiện tượng thiên
nhiên. Những tin tưởng này thiếu sự trầm tư của lý trí
suy luận nên đã không tiến triển thành những ý niệm siêu
hình mà vẫn mang tính chất hình ảnh hiện tượng, do đó
mà dân tộc Việt nam đã không thể xây dựng thành hệ thống
triết học mà chỉ dần dà biến những tin tưởng này thành
một loại tín ngưỡng gọi là đạo Tiên, mang sắc thái đặc
biệt của dân tộc, chứ không hoàn toàn giống như đạo Tiên
phát xuất từ tư tưởng Lão giáo của Trung hoa.
Từ ý thức về
sự bé nhỏ và bất lực của con người trước cuộc đời
với những hiện tượng thiên nhiên luôn luôn đe dọa, con
người tưởng tượng ra một cuộc sống trường sinh bất
tử ở thế giới tiên cảnh. Và từ sự mơ ước được sống
trong một thế giới trường sinh bất tử và hạnh phúc ở
bên ngoài cuộc đời này đã khiến cho người Việt nam không
quan tâm đến việc cải tạo trần gian thành một nơi con người
có thể sống hạnh phúc mà chỉ coi đó như là nơi đày ải
của những tâm hồn chưa giũ sạch tục lụy hay các thần
tiên còn vướng mắc vào vòng tội lỗi. Trong dân gian vẫn
còn truyền tụng nhiều câu truyện về mối liên hệ giữa
Tiên với người đời như truyện Từ Thức lạc vào tiên
cảnh, hay truyện Tú Uyên và Giáng Kiều.
Có lẽ do ảnh
hưởng của những điều mê tín hoang đường cùng với mộng
tưởng về một thế giới thần tiên rất phổ cập trong dân
gian mà người sáng tác ra câu truyện Rồng Tiên đã dựng
nên câu truyện nguồn gốc dân tộc Việt nam phát xuất từ
những vật tổ có tính cách thần kỳ và quái đản cho phù
hợp với trình độ nhận thức chung và cái tâm lý chung vốn
kính sợ những mãnh lực thiên nhiên của mọi người trong
xã hội thời bấy giờ.
Tuy rằng đa số
người Việt nam ngày nay không còn tin vào tính cách thần kỳ
quái đản của truyện Tiên Rồng, nhưng vẫn mặc nhiên chấp
nhận huyền thoại Rồng Tiên như một giải thích cho cái điều
chưa thể giải thích về nguồn gốc, đồng thời vẫn xem
chuyện Tiên Rồng như là một biểu tượng cho tinh thần dân
tộc, chỉ vì cái huyền thoại này hình như vẫn có một mãnh
lực nào đó để liên kết những con người Việt nam lại
với nhau từ bao đời nay.
2.- CHUỖI DÀI NHỮNG NGHỊCH LÝ
Ðối với người
Ðông phương nói chung và người Việt nam nói riêng, Rồng
và Tiên đều là những biểu tượng cao qúy. Khi người Việt
nam nhận mình là con cháu Tiên Rồng tức là đã tự cho mình
thuộc giòng giõi cao quý chứ không phải loài giống tầm thường.
Rồng còn tượng trưng cho lý trí, uy quyền, sức mạnh. Khi
Rồng ẩn nhẫn ở ao hồ thì hình như rất tầm thường, nhưng
một khi gặp mây thì Rồng lại có thể vùng vẫy tạo ra mưa
gió và có một sức mạnh phi thường.Tiên là nguồn gốc của
tình cảm, thương yêu và dịu dàng. Như vậy, Rồng và Tiên
cũng là tượng trưng cho hai yếu tố tinh thần: lý trí và
tình cảm. Dân tộc Việt nam là con cháu Tiên Rồng, tất nhiên
phải là một dân tộc vừa thông minh tài giỏi, lại vừa
hiền hoà yêu thương.
Ðây có lẽ là
cái điểm nói lên dân tộc Việt nam là một dân tộc có một
cá tính rất đặc biệt, mang nhiều nét mâu thuẫn, nhiều
khi gần giống như là những nghịch lý. Tuy rằng dân tộc
Việt nam vẫn được coi là thông minh , ham học, và có trí
nhớ dai nhưng lại chỉ thích bắt chước và cải đổi cái
của người cho phù hợp với hoàn cảnh của mình chứ không
chịu tìm tòi sáng tạo ra cho riêng mình. Chính vì thế mà
cái mẫu mực Trung quốc vẫn cứ ám ảnh và đè nặng lên
tư tưởng của người Việt nam khiến cho người Việt nam
không vươn lên được.
Ngoài ra, có lẽ
cũng vì do những điều kiện thiên nhiên hiền hòa nên con
người không cần phải đấu tranh cật lực mới tìm được
cái sống cho nên dễ nảy sinh thái độ cầu an hưởng lạc
hơn là suy nghĩ tìm tòi để bắt thiên nhiên phục vụ mình.
Cái quan niệm "Trời sinh voi, sinh cỏ" là một biểu lộ cho
thái độ thích an nhàn. Do đó trong cách nhìn sự vật , người
Việt nam cũng chỉ nhận xét thế giới khách quan qua mặt hiện
tượng mà không tìm hiểu sâu về yếu tính, cho nên không
dẫn đến sự hình thành khoa học mà chỉ luẩn quẩn trong
phạm vi kinh nghiệm. Ðó cũng là lý do khiến cho người Việt
nam dễ nảy sinh ra những tưởng tượng hoang đường, dù sống
trong cuộc đời hiện tại nhưng vẫn mơ tưởng một cõi Tiên
nào đó.
Bình thường,
người Việt nam vẫn yêu thích sự hiền hòa cho nên dù có
bị áp bức vẫn cố nhịn nhục như câu tục ngữ thường
được mọi người lấy làm châm ngôn: "một câu nhịn là
chín câu lành", hoặc như câu: "tránh voi chẳng xấu mặt nào".
Một ngàn năm bị người Trung hoa cai trị bằng chính sách
bóc lột rất hà khắc và bị coi là man di, người Việt nam
vẫn chịu đựng để sống còn và duy trì cái bản sắc cố
hữu của mình.
Tuy nhiên như câu
tục ngữ khác cũng đã nói: "Tức nước vỡ bờ", hoặc là:
"con giun xéo lắm cũng quằn", cho nên cũng có một lúc nào
đó, khi mà sự nhịn nhục không còn thể nào chịu đựng
được nữa, thì dân tộc Việt nam cũng nhân thời cơ đó
mà như Rồng gặp mây, vùng dậy đánh đuổi quân đô hộ
để giành lại quyền tự chủ cho dân tộc. Từ sự thành
công này, dân tộc Việt nam đã có được một tâm lý tự
hào, và huyền thoại Rồng Tiên là một tác động vào tâm
lý tự hào này để biến thành tinh thần dân tộc tự tôn.
Cái tinh thần
tự tôn này được bộc lộ rất rõ trong cách người Việt
gọi các dân tộc khác. Không kể những dân tộc yếu kém
hơn vốn đã bị người Việt nam coi là mọi rợ, ngay cả
với các dân tộc văn minh hơn cũng không còn làm cho người
Việt nam phải kính sợ. Dù đã từng bị Tàu đô hộ, bị
Tây cai trị, hay trong thời gian gần đây bị Mỹ khuynh loát,
dân Việt nam vẫn gọi các dân tộc này bằng những từ coi
thường như chú chệc, thằng Tây, bọn Mẽo.
Một vài nhà nghiên
cứu ngày nay cho rằng thực ra cái tinh thần tự tôn này chỉ
là biến thái của mặc cảm tự ti. Sống bên cạnh một dân
tộc khổng lồ, văn minh hơn, và lúc nào cũng lăm le tiêu diệt
các dân tộc bé nhỏ, người Việt nam đã đặt ra câu truyện
Tiên Rồng để biến đổi cái mặc cảm tự ti trên thành
mặc cảm tự tôn, tạo cho dân tộc Việt nam cái ý nghĩ "giấy
rách phải giữ lấy lề", nhờ đó mà người Việt nam chẳng
những đã duy trì được cái tinh thần dân tộc để tránh
khỏi bị đồng hóa hay bị tiêu diệt, mà cuối cùng còn có
thể liên kết nhau để quật khởi giành lại giang sơn về
cho dân tộc mình. Như vậy là câu truyện Rồng Tiên đã có
tác dụng cổ võ cho tinh thần yêu nòi giống cũng như tạo
nên sự đoàn kết toàn dân để chống lại bất cứ sự đô
hộ nào. Nhờ thế mà dân tộc Việt nam đã dám chống cự
lại với Tống, Nguyên, Minh, Thanh hay là gần đây hơn, đã
có thể đánh Tây đuổi Mỹ, mặc dù vẫn biết rằng sức
của mình đem ví với lực lượng của các nước này chẳng
khác nào "trứng chọi với đá" hay là "châu chấu đá xe". Và cũng chính nhờ những lần chiến thắng đó mà dân tộc
Việt nam đã tạo được cho mình cái truyền thống bất khuất.
Nhưng có một
điều khiến cho sự hòa hợp lại có vẻ như là nghịch lý.
Tại sao người đặt truyện lại không đặt ra dân tộc Việt
có một tổ tiên cùng chung một loài giống để có thể yêu
thương hòa hợp cùng nhau mà lại tạo ra sự kết hợp của
hai loài khác nhau? Và phải chăng rồi lại chính vì suy luận
mà người sáng tác ra câu truyện trên đã nhận ra cái điều
phi lý của sự kết hợp này, do đó mới để cho Tiên và
Rồng phân ly vì hai bản tính không thể tương hợp?
Thông thường
sự kết hợp trong hôn nhân vẫn là nhằm tạo dựng một gia
đình vững bền và hạnh phúc, nhưng trong truyện Rồng Tiên,
sự kết hợp lại không đạt được cứu cánh đó. Dù Rồng
và Tiên đã tác hợp với nhau để sinh con đẻ cái, nhưng
Rồng vẫn mang bản chất Rồng, còn Tiên vẫn giữ bản chất
Tiên, nên đã không thể nào hòa hợp với nhau lâu dài. Cuối
cùng là vợ chồng đành phải chia ly. Con cái cũng phải một
nửa theo cha và một nửa theo mẹ. Phải chăng đây cũng chính
là điều phản ánh những mâu thuẫn nội tại của con người
Việt nam? Mặc dù dân tộc Việt nam là một dân tộc thống
nhất nhưng lịch sử cũng đã từng ghi lại không biết bao
nhiêu lần "nồi da xáo thịt", hay cái cảnh "gà nhà bôi mặt
đá nhau". Ðất nước cũng đã có nhiều lần chia năm xẻ
bảy, và cũng đã trải qua hai thời kỳ qua phân lâu dài đưa
đến một hậu quả ngăn cách về tâm lý rất trầm trọng,
đó là cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, và cuộc chia đôi lãnh
thổ theo hiệp định Genève 1954. Sau những lần qua phân này,
sự tái thống nhất dù có được thực hiện về phương diện
chính trị, nhưng riêng về phương diện tâm lý thì sự hoà
hợp không bao giờ còn nguyên vẹn.
Xã hội Việt
nam thời nguyên thủy vốn theo chế độ mẫu hệ, do đó mà
người đàn bà Việt nam từ ngàn xưa đã có một địa vị
đáng kể. Câu tục ngữ "Nhất vợ, nhì Trời" hay "Giặc đến
nhà, đàn bà cũng đánh", cho thấy người đàn bà Việt nam
xưa nay vẫn được tôn trọng.Từ khi chịu ảnh hưởng Hán
tộc để chuyển thành phụ hệ, vai trò của người đàn bà
có phần bị giới hạn, nhưng quyền hạn của người đàn
bà trong gia đình vẫn còn rộng rãi, và ảnh hưởng của người
mẹ đối với vấn đề giáo dục con cái vẫn có tính cách
quyết định. Câu tục ngữ "Con hư tại mẹ, cháu hư tại
bà" đã nói lên tầm quan trọng của người đàn bà trong lãnh
vực này. Nhưng người đàn bà bao giờ cũng nặng tình cảm
và ít phân tích sự vật theo lý trí. Có lẽ vì thế mà người
Việt nam không phát triển được óc suy luận trừu tượng,
chỉ ham chuộng cái gì cụ thể , thực tế và đáp ứng được
nhu cầu trước mắt hơn là những lý tưởng cao xa. Thằng
Bờm cười để tỏ vẻ chấp thuận khi nhìn thấy nắm xôi
như là vật trao đổi với cái quạt mo trong bài ca dao Thằng
Bờm là một minh chứng cho cái đầu óc thực tế thiển cận
này. Ngoài ra cái khuynh hướng thiên về tình cảm như trong
câu tục ngữ: "Nhất mẹ, nhì cha, thứ ba bà ngoại" cho thấy
người Việt nam dễ sinh tình quyến luyến, cho nên mỗi người
thường không sống cho riêng mình mà sống là sống cho gia
đình, cho giòng họ, và cuộc sống dựa vào nhau này tạo thành
một mớ dây mơ rễ má mà con người khó lòng rứt bỏ.
Dân tộc Việt
nam vẫn thường được xem như là một dân tộc hiếu hòa,
biết trọng điều lễ nghĩa, hay thương người và biết đùm
bọc lẫn nhau như mọi người vẫn nói: "Lá lành đùm lá rách".
Nhưng ngược lại, cái bản tính ích kỷ hầu như cũng là
một nét cố hữu trong con người, nên một khi quyền lợi
bị đụng chạm hay tình cảm san sẻ không đều, thì đó cũng
lại là những nguyên nhân khiến cho dù là anh em trong nhà cũng
sẵn sàng cấu xé nhau. "Không được ăn thì đạp đổ" cũng
là một hiện tượng tiêu cực rất thường xuyên và rất
phổ biến.
Một điểm nữa
là dân Việt nam tự ngàn xưa vẫn quen sống thành làng, hoặc
nếu sinh hoạt bằng nghề nghiệp thì cũng kết thành phường
để nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau. Làng hay phường là
những cơ cấu xã hội có tác động trực tiếp và quan trọng
nhất trong cuộc sống của con người. "Phép vua thua lệ làng",
tục ngữ Việt nam cũng đã từng nêu lên như vậy. Nếu cái
làng giúp cho con người Việt nam phát sinh và duy trì những
tình cảm tốt thì ngược lại cái làng cũng là môi trường
dung túng những tệ đoan, hủ tục, làm nảy nở đầu óc địa
phương hay bè phái, tính thủ cựu và đầu óc cố chấp.
Những câu nói như: "Ðèn nhà ai, nhà nấy rạng", "Ăn cây nào,
rào cây nấy" cho thấy cái tư tưởng kỳ thị, đầu óc địa
phương hay mang nặng tính cách bè phái của người Việt nam.
Cũng vì lối suy
nghĩ theo cảm quan lấn át suy luận theo lý trí nên người
Việt nam thường không có được những ý niệm rõ ràng về
quốc gia, dân tộc, mà luôn luôn có khuynh hướng liên kết
những ý niệm trừu tượng với những hình ảnh cụ thể
có tính cách thân thuộc như là tổ tiên , giòng họ, xóm giềng,
cho nên sự đoàn kết trên bình diện quốc gia chỉ có được
khi mà cơn hoạn nạn khó khăn có tác động đến chính bản
thân, gia đình, họ hàng hay làng xóm của mình. Và cũng do
khuynh hướng dựa vào tình cảm với nhau mà sống nên cái
tình liên đới cũng mang nặng tính chất chủ quan theo kiểu
"khi lành, quạt giấy cũng cho; khi dữ, quạt mo cũng đòi" khiến
cho sự đoàn kết hay đồng tâm nhất trí trên một bình diện
rộng lớn thường không có tính cách lâu bền. Một khi thoát
cơn sóng gió, bản tính ích kỷ và ưa thủ lợi cho mình hay
người thân thuộc của mình lại lấn át cái nghĩa chung khiến
cho cái tinh thần gia đình hay đầu óc địa phương, bè phái
lại nổi dậy để chia rẽ nhau, và con người lại chỉ muốn
quay về với cái cộng đồng bé nhỏ của mình nhiều hơn.
Qua bao nhiêu thế
kỷ, con người Việt nam vẫn bám lấy quê hương mà sống,
ít khi muốn rời bỏ nơi mình chôn nhau cắt rún. Mọi người
vẫn quen bảo nhau: "Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm". Tuy nhiên
lịch sử lại cho thấy dân tộc Việt nam cũng đã từng thôn
tính nước Chiêm thành và xâm lấn một phần đất Chân lạp
để rồi biến nó thành quê hương vĩnh viễn của chính mình.
Cái lý do đưa đến sự xâm chiếm này cũng thật là giản
dị: "Ðói, đầu gối phải bò." Cuộc Nam tiến của dân tộc
Việt nam cũng lại là một nghịch lý vì trong khi vẫn yêu
cuộc sống hiền hòa, nhưng để thực hiện cái mục tiêu
kinh tế, dân Việt nam trong thực tế cũng đã tiêu diệt cả
một dân tộc khác.
Khi rủ nhau làm
cách mạng theo tinh thần duy lý Tây phương, người Việt nam
vẫn bị cái bản chất duy cảm chi phối nên không bao giờ
đạt được cái ý niệm thực sự về tự do dân chủ. Tất
cả đều được nhận thức qua cảm quan và diễn dịch theo
luận lý liên tưởng, do đó mang nặng tính cách chủ quan có
tính cách hiện sinh và hiện tượng. Ngoài ra, đầu óc mê
tín cùng với cái khối tình cảm mơ mộng hình như lúc nào
cũng ám ảnh bên mình khiến cho người Việt nam vẫn không
gột rửa được cái lề lối suy nghĩ cũ. Do đó mà khi tiếp
xúc với trào lưu tư tưởng hiện đại, người Việt nam vẫn
không lãnh hội đúng cái tinh thần duy lý để hành động
theo khoa học cho nên đã dẫn đến những sai lầm tác hại
như phá bỏ cái cũ không tính toán và khi xây dựng cái mới
thì cũng chỉ biết làm theo kiểu "Lành làm gáo, vỡ làm môi,
lôi thôi làm thìa" cho nên kết quả là mọi nỗ lực đều
bị lãng phí, và xã hội càng thêm tan nát.
Năm thế kỷ trước,
vào thời mà cả thế giới còn đắm chìm trong chế độ phong
kiến lạc hậu, thì ở tại Việt nam, khi Lê Lợi đánh đuổi
được quân Minh giành lại nền độc lập cho dân tộc, đã
cho công bố bản Bình Ngô đại cáo với những lời lẽ thật
khoan dung và độ lượng như: "lấy chí nhân mà thay cường
bạo." Nhưng rồi giữa thế kỷ 20 này, khi mà thế giới đang
tiến lên con đường Tự do Dân chủ, tôn trọng Nhân quyền,
thì cũng tại cái đất nước vẫn tự hào có bốn ngàn năm
văn hiến, dân tộc Việt nam khi rủ nhau vùng lên làm cuộc
cách mạng để bảo vệ quyền sống và quyền làm người
thì lại cùng nhau gào thét: "thề phân thây uống máu quân
thù", và đó lại chính là lời lẽ trong bài hát được một
phe phái dùng làm quốc ca.
Một ngàn năm
bị người Trung hoa đô hộ và bị bóc lột một cách tàn
nhẫn, ngưòi dân Việt nam vẫn nhẫn nhục để sống còn.
Ðiều này đã tạo cho con người Việt nam một sức chịu
đựng thật bền bỉ, nhưng trong sự nhẫn nhục đó hình như
lúc nào cũng ấp ủ một mối căm hờn, chỉ chờ có dịp
là bùng nổ thành những hành vi độc ác, có khi tàn nhẫn.
Do đó mà một khi bị khích động, người dân Việt nam cũng
dễ khái quát hóa vấn đề một cách chủ quan để trở thành
vong thân cho những xúc cảm thiếu sự kiểm soát của lý trí.
Những cuộc đấu tố dã man trong phong trào cải cách ruộng
đất do chế độ cộng sản chủ trương, hay những hành vi
tàn bạo trong chiến tranh, đã là minh chứng cho cái nghịch
lý này của con người.
Sau 30 năm chiến
tranh tương tàn với những chiêu bài Tự do, Bình đẳng, Nhân
quyền, Hạnh phúc, những ý thức hệ chống đối nhau được
đem ra áp dụng vào xã hội Việt nam bằng một thái độ cố
chấp theo kiểu "sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", kết quả
là xã hội Việt nam càng thêm băng hoại và lòng người thêm
phân hóa, và cũng đã có những con người Việt nam phải lìa
bỏ đất nước mà đi. Người dân Việt nam với bản chất
không thiết tha với những gì có tính chất duy lý và trừu
tượng nên đã không thực hiện được ước mơ của mình,
do đó vẫn thấy mình xa lạ và lạc lõng giữa rừng tư tưởng
của những ý thức hệ.
Cho dù nếp sống
theo khoa học kỹ thuật hiện đại có gò bó con người vào
thế giới vật chất thực tại, nhưng con người Việt nam
hình như vẫn không thoát khỏi cái ảnh hưởng của những
giấc mơ thần tiên, cho nên vẫn thấy mình cứ mãi mãi như
lưng chừng giữa lý trí và tình cảm, giữa thương yêu và
hận thù, giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa bành trướng
và lệ thuộc, giữa mơ mộng và thực tế, giữa quá khứ
u hoài và tương lai còn cần phải xây dựng...
Một dân tộc
có một truyền thống bất khuất, có một niềm tự hào về
dân tộc mình, khi bước vào kỷ nguyên khoa học tiến bộ
lại không tạo được cho mình một vị trí xứng đáng phải
chăng đó là một nghịch lý? Một dân tộc đã có lần tuyên
bố hùng cứ một phương với Trung quốc, đã biết tổ chức
làng thành một cơ cấu mang nhiều nét dân chủ từ thời phong
kiến, đã từng triệu tập Hội nghị Diên hồng để vận
động toàn dân cự Nguyên, đã có một bộ luật Hồng Ðức
được xem như là một bộ luật tiến bộ từ thời nhà Lê,
nhưng lại không đạt được cái cứu cánh hòa bình và thịnh
vượng trong thời đại đổi mới này. Những cố gắng cải
cách từ những thời xa xưa như của Hồ Qúy Ly hay Quang Trung
đều bị thất bại, cũng như những phong trào cách mạng trong
thế kỷ 20 đã không mang lại kết quả cũng chỉ vì bản
chất duy cảm của dân tộc vốn mang nhiều mâu thuẫn nội tại.
Ngày nay do những
điều kiện chính trị và kinh tế trên thế giới đã biến
đổi khiến cho các dân tộc không còn thu mình trong biên giới
quốc gia. Dân tộc Việt nam cũng đã có nhiều người phải
từ bỏ quê hương ra đi tìm cuộc sống nơi những quốc gia
khác. Nhưng cho dù bám lấy quê hương mà sống hay bỏ ra xứ
người làm kẻ tha hương với tâm trạng của kẻ lưu đày
thì cái bản chất thiên về tình cảm, đồng thời cái mặc
cảm tự hào lúc nào cũng ray rứt, đã khiến cho con người
Việt nam vẫn không thay đổi cá tính dân tộc của mình. Do
đó, dù là sống ở đâu và trong hoàn cảnh nào đi nữa, người
Việt nam vẫn không bị đồng hóa, mà trái lại còn tìm đến
với nhau chỉ vì cái lẽ thấy mình vẫn luôn luôn tha thiết
với những gì vốn được coi là truyền thống của dân tộc.
Có lẽ vì thế
mà dù tin hay không còn tin chuyện Tiên Rồng thì hình ảnh
Tiên Rồng vẫn thường được mọi người Việt nam nhắc
đến như là một biểu tượng của dân tộc, và huyền thoại
Rồng Tiên vẫn sống trong lòng mỗi người như là cái dấu
ấn của những nghịch lý trong tâm hồn của một dân tộc
vốn mang một truyền thống tự hào.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment