Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Thursday, February 7, 2013

Nghe Từ Thủa Nằm Nôi

Tạp luận


Tôi sinh ra và lớn lên trên đất nước Việt nam, tiếng Việt là ngôn ngữ đầu tiên tôi học nói trong đời, như vậy, nếu tôi có nói tôi yêu tiếng Việt thì đó cũng chỉ là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, nhiều khi ngẫm lại cái ngôn ngữ mình nói và mình yêu mến đó thể hiện trong cuộc sống chung quanh, tôi không khỏi có những cảm nghĩ gần như rất lẩm cẩm.




1.- LỜI MẸ RU


Tiếng Việt vốn giàu về âm thanh và ngữ điệu. Nhiều nhà nghiên cứu về ngữ học đã căn cứ vào đặc tính này để cho rằng tiếng Việt là ngôn ngữ của thi ca và âm nhạc. Ðiều này cũng không ngoa vì hầu như người dân Việt nào cũng thích thơ hoặc có làm thơ, và có người còn bảo mỗi người Việt nam là một thi sĩ.

Do âm điệu trầm bổng của ngôn ngữ mà những câu nói diễn tả kinh nghiệm thường ngày hay tâm tư tình cảm trong cuộc sống thường được người ta nói lên sao cho có vần có điệu, nhờ đó mà người ta dễ thuộc dễ nhớ. Những câu nói đó lại được truyền khẩu cho nhau và qua nhiều lần trau chuốt đã trở thành ra những bài ca dao hay những câu tục ngữ.

Có thể nói ca dao và tục ngữ không những chỉ là nơi gửi gắm tâm tư tình cảm của đại chúng mà còn là cái túi khôn của dân tộc được tích lũy qua nhiều thế hệ, nhờ thế mà dân Việt nam có được một kho tàng văn học dân gian rất phong phú. Phải chăng đây cũng là cái lý do khiến cho tới ngày nay mỗi khi nói chuyện, viết văn, người dân Việt vẫn hay có thói quen kèm theo những câu ca dao hay tục ngữ để hỗ trợ thêm cho ý mình muốn diễn đạt.

Vì ca dao có đặc tính rất truyền cảm cho nên ngày xưa các bà mẹ vẫn thường hay dùng các bài ca dao này để hát lên khi ru con ngủ, lâu dần kiểu hát này trở thành điệu ru em. Nhưng ngoài cách hát theo điệu ru em, cũng do đặc tính giàu âm thanh và ngữ điệu của ngôn ngữ mà nhiều làn điệu dân ca khác cũng dần dần hình thành. Tùy theo âm hưởng giọng nói của từng vùng mà mỗi miền có những làn điệu dân ca riêng. Những làn điệu dân ca này không những được người ta dùng để hát trong những dịp vui chơi hội hè mà còn có thể hát khi đang làm công việc nữa. Có những làn điệu vui tươi nhẹ nhàng như hát Trống quân, hát Quan họ miền Bắc, nhưng cũng có những điệu ai oán như một số điệu ca Huế hoặc man mác u hoài như các điệu hò của miền Trung và miền Nam.

Khi người Việt di dân vào miền Nam lập nghiệp của những thế kỷ trước, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Phù nam màhọ đã sáng tạo ra thêm điệu ca vọng cổ rất được người bình dân mê chuộng. Ðối với người bình dân miền Nam, tham dự một cuộc vui chơi văn nghệ nào mà không có ca vọng cổ thì cũng chẳng khác nào đi ăn "hủ tiếu mà thiếu nước lèo". Khi nghe ca vọng cổ, điều mà người nghe quan tâm nhiều hơn cả là những cái lên giọng xuống giọng sao cho thật "mùi", và vì điệu ca này chỉ thích hợp với âm giọng của miền Nam nên chỉ khi nào nói được âm giọng miền Nam thì mới có thể ca vọng cổ.

Kể từ khi phong trào tân nhạc bắt đầu thành hình và được phổ biến rộng rãi vào giữa thế kỷ 20 thì đối với những thế hệ trẻ ngày nay hầu như những tiết điệu mới đã thay thế những làn điệu dân ca cũ, nhưng ở thôn quê hay xã hội Việt nam suốt mấy ngàn năm qua, các bà mẹ đã ru con bằng những điệu ru em hay những làn điệu dân ca đầy tính dân tộc này. Tuy thế âm hưởng của những làn điệu dân ca vẫn không bao giờ tắt lịm trong tâm hồn mỗi người dân Việt. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã từng biểu hiện tâm thức này qua bản Tình ca của ông:

"Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời... À, à, ơi...Tiếng ru muôn đời...


Ðây không những chỉ là niềm xúc động riêng tư của người nhạc sĩ mà tưởng chừng như tự ngàn xưa người dân Việt cũng đã từng tha thiết với làn âm thanh của thứ ngôn ngữ này để cứ gắn bó với nó cho dù dân tộc có trải qua bao nhiêu truân chuyên suốt giòng lịch sử:

Tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ thủa nằm nôi
Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi..."


Người dân Việt vẫn thường tự hào có trên bốn ngàn năm lập quốc nhưng hơn hai ngàn năm đầu chưa có sử. Kế đến lại phải trải qua một ngàn năm sống dưới sự cai trị đầy bất công áp bức của người Trung hoa, phải chịu nhiều đắng cay thua thiệt. Qua thời kỳ tự chủ thì đất nước cũng thường lâm cảnh nội chiến, loạn lạc triền miên, và khi mở mang bờ cõi về phương Nam thì cũng chứng kiến thêm cảnh điêu tàn của một dân tộc bị suy vong, do đó cuộc sống lúc nào cũng có vẻ vui ít buồn nhiều. Chiến tranh gần như là một nỗi ám ảnh thường xuyên:

Trời sinh ra giặc làm chi
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường


Về mặt kinh tế xã hội thì dân tộc Việt nam bốn ngàn năm qua chủ yếu sống bằng nông nghiệp cho nên mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế tự cung tự cấp, do đó mọi người trong gia đình phải chia nhau mọi công việc. Trình độ kỹ thuật sơ khai, lại còn phải lệ thuộc vào thiên nhiên, thì cuộc sống thật là vất vả:

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa


Vì mỗi gia đình sống trong nền văn minh nông nghiệp cũ thường bao gồm nhiều thế hệ cho nên một đứa trẻ sinh ra không phải chỉ có sự chăm sóc của người mẹ mà còn có bà nội hoặc bà ngoại, có cô hoặc dì, hay đối với những đứa em sinh sau thì có chị thay nhau trông giữ. Tùy người ru em và tâm trạng người ru em mỗi lúc mà người ta có thể nghe đủ mọi loại ca dao, từ những câu vô thưởng vô phạt theo kiểu trẻ con học nói như:

Con mèo, con chó có lông
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai...


cho đến những câu ca dao trữ tình có lúc nhẹ nhàng, bay bướm mà cũng có lúc lại là những câu hát nuối tiếc hoài mong, kể cả những câu than thân trách phận mình hay xót thương cho cảnh ngộ của người khác:

Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than


Lời ca tiếng hát điệu hò là những phương tiện giúp con người giãi bày tâm sự, mà một khi nói đến tâm sự thì cái vui thường qua nhanh và không gây ấn tượng lâu bền bằng những cái khó khăn chật vật trong cuộc sống, những nỗi đau buồn tiếc nhớ, cho nên tất cả những kinh nghiệm này đều được phản ảnh qua ca dao do đó mà khi ru con, người ta cũng có thể nghe người mẹ hát những lời ca phảng phất một nỗi buồn thân phận:

À ơi!... Cái ngủ mày ngủ cho say
Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày


Hoặc có khi người mẹ bận bịu với công việc đồng áng thì bà lại phải thay mẹ ru cháu:

À ơi!... Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về


Có thể nói cái âm điệu dịu nhẹ của những lời hát ru em vỗ về bên tai không những giúp cho đứa bé an tâm đắm mình vào giấc ngủ bình yên mà còn chuẩn bị cho đứa bé một thái độ mai sau đối với cuộc đời. Nếu chúng ta thấy người dân Việt thường có thói quen ca hát dù là đang cày cấy ngoài đồng, đang chèo thuyền trên bến sông hoặc đang cặm cụi bên cái cối xay lúa hay cối giã gạo, thì đó chẳng qua cũng chỉ là một hình thức tiếp nối lời ru của mẹ, giúp con người tìm lại sự êm ả của tâm hồn như thủa ấu thơ được sà vào lòng mẹ.

Chính cái âm thanh và ngữ điệu của tiếng nói đầu tiên này ảnh hưởng rất lớn đến cá tính và hành xử của con người Việt nam. Thái độ hiền hòa nhịn nhục, tình cảm quyến luyến với gia đình, phải chăng đó là do ảnh hưởng của lời mẹ ru thủa mới chào đời? Khi đọc các tác phẩm của nhà thơ kiêm nhà văn Hồ Dzếnh chắc không ai trong chúng ta là không có cảm tưởng tác giả hầu như gắn bó rất nhiều với quê mẹ Việt nam hơn yêu quê cha Trung quốc, vì ông đã sinh ra và lớn lên bằng những âm thanh êm dịu man mác buồn qua lời ru của mẹ.

Nhưng bên cạnh những âm thanh êm dịu, nhẹ nhàng, bay bướm, thiết tha... của những bài ca dao tình cảm thương yêu, ấp ủ thì cũng có vô số những âm thanh chát chúa, the thé, sôi sục của những tình cảm giận dữ, căm hờn trước những bất mãn của cuộc sống thực tế hàng ngày, mà vô tình mỗi đứa trẻ khi bắt đầu phát triển ý thức về sự vật quanh mình cũng đã phải tiếp thu, và dù muốn dù không những điều này cũng đã góp phần vào việc thành hình nhân cách về sau.


2.- ÂM VANG CỦA TIẾNG CỒNG


Nếu tiếng Việt giàu âm thanh ngữ điệu êm dịu để diễn tả những tình cảm hiền hoà thì mặt khác tiếng Việt cũng không thiếu những âm thanh ngữ điệu để bộc lộ những tình cảm âm ỉ hay sôi sục: từ những tiếng tỉ tê, rền rỉ, cho đến những âm thanh lanh lảnh, chát chúa. Có lẽ vì thế mà khi muốn biểu lộ nỗi bực tức, đau khổ, giận dữ, người ta cũng thích quay về với tiếng Việt vì tiếng Việt mới thực sự có đủ từ ngữ từ thanh tới tục, và âm thanh từ nặng tới nhẹ để diễn tả một cách trọn vẹn.

Từ ngàn xưa do sống gần thiên nhiên, phải chống chỏi với thú dữ, yêu quái mà người dân Việt đã phải xử dụng tiếng động nhằm xua đuổi thú dữ tà ma ám khí bằng các hình thức gây âm thanh vang động như khua chiêng, gióng trống, gõ mõ, thổi kèn... Như vậy âm thanh có công dụng mang lại cho con người cảm giác đỡ cô đơn, bớt sợ hãi và cảm thấy tự tin hơn.

Có lẽ do cảm giác sợ cô đơn và sợ bị bỏ quên mà khi nói năng người dân Việt cũng có thói quen thích "ăn to nói lớn". Mới thấy nhau từ xa đã gọi nhau ơi ới, đi tìm mà không thấy thì hú gọi vang vọng khắp nơi. Bất cứ nơi nào có một sự tụ tập đông người là sự im lặng bị phá vỡ ngay lập tức: cười đùa vang vang mà cãi cọ cũng thật om sòm. Chợ búa mua bán ồn ào, rao hàng inh ỏi đã đành, mà ngay cả đến những chuyện buồn như đám ma cũng phải kèn trống, khóc lóc kể lể như gào lên cho càng có nhiều người khác nghe càng tốt, vì có thế thì nỗi cô đơn mới vơi đi được.

Ngoài thói quen nói to người dân Việt lại rất hay nói, cái gì cũng nói được cả và còn tranh nhau nói, nhiều khi nói không ai nghe nhưng vẫn cứ nói. Tuy nhiên đàn ông có cả tiếng dài hơi kiểu mõ làng cũng còn kém xa mấy bà về phương diện này. Các bà vừa nói nhiều, nói dai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào cho nên có lẽ nhờ thế mà tiếng Việt trở thành bất diệt.

Vì bản chất nặng tình cảm, thích tò mò nhưng lại không suy luận tìm hiểu ngọn nguồn mà lại hay nói cho nên người đàn bà Việt nam lúc nào cũng thích có người, thích nghe chuyện và thích kể lể con cà con kê, hết chuyện mình thì lại đem chuyện của người ra nói. Cái tính ngồi lê đôi mách, kể chuyện xấu người này người nọ hầu như cũng là một cái nết chính của người đàn bà Việt nam cho nên đồng dao mới có câu hát:

Thìa la thìa lảy
Con gái bảy nghề
Ngồi lê là một...


Ngồi lê đây có nghĩa là ngồi lê mách lẻo. Chính cái thói quen ngồi lê đôi mách này là nguyên nhân cho không biết bao nhiêu chuyện xích mích mất lòng, đưa đến những cuộc cãi vã, đôi chối, sinh sự với nhau. Ca dao cũng có những câu mô tả cái tính nhiều chuyện này:

Em liều một cái bánh bò
Con nào chót chét, cặp giò em chặt hai
Em liều một chén dầu chanh
Con nào hỗn dữ vuốt nanh em bẻ liền
Em liều một trái sầu riêng
Con nào độc hiểm, em nghiền ra tro


Thường thì mỗi khi nóng giận, người đàn ông có thể to tiếng cãi nhau hay quát tháo, khi quá giận dữ thì có thể sinh ra ẩu đả, đâm chém nhau, tuy có vũ bão thật, nhưng thường qua mau chứ không như đàn bà, bất cứ trường hợp nào cũng có thể kéo dài, hết tỉ tê ai oán như những lúc than thân trách phận thì lại leo lẻo con cà con kê hoặc chanh chua như khi cãi vã, và đặc biệt hơn cả là những âm thanh lanh lảnh chói chang khi họ chửi bới nhau. Có lẽ vì thế mà khi so sánh người đàn ông và người đàn bà về phương diện này, tục ngữ cũng có câu: "Lệnh ông không bằng cồng bà".

Cồng là một khí cụ bằng đồng có công dụng gây âm thanh vang động và thường được dùng để ra hiệu, truyền lệnh hay được dùng như một nhạc khí trong các cuộc tế lễ. Do âm thanh lanh lảnh và vang xa của đồng mà tiếng người đàn bà khi cao giọng the thé chửi rủa cũng được ví với âm thanh của tiếng cồng. Và một khi người đàn bà đã cất tiếng kể lể hay chửi bới thì không còn ai có thể bụm miệng người đàn bà đó được nữa.

Một trăm ông chú chẳng lo
Lo về một nỗi mụ o nỏ mồm


Phải nói cái tài chửi bới của người đàn bà Việt nam đã đạt đến một trình độ tinh vi ngang hàng một nghệ thuật. Ngoài cái sự dài hơi lớn tiếng còn phải biết chửi sao cho có vần có điệu, có câu có kệ, lúc lên bổng lúc xuống trầm, bên cạnh những câu thô tục cộc cằn còn phải biết chêm vào những câu văn hoa hay ví von ca dao tục ngữ, cũng như phải có điệu bộ múa may kèm theo để hỗ trợ cho lời nói. Chẳng thế mà người ta lại có thể khen người này người kia là chửi hay, chửi khéo, chửi giỏi.


Nhiều lúc tôi tự hỏi không biết vào cái thủa Hùng Vương xa xưa người Việt nam có biết chửi nhau không hay chỉ từ khi người dân Việt bị quân Tàu đô hộ, chịu quá nhiều áp bức mà kêu trời không thấu nên đành phải chửi rủa cho hả nỗi uất ức, lúc đầu chỉ nhắm vào đám quan quân Tàu, rồi sau đó cũng được đem ra xử dụng đối với người đồng chủng mỗi khi gặp chuyện gì không vừa ý, lâu dần biến thành thói quen của cả một dân tộc. Cái chuyện hàng xóm láng giềng vừa thân thiện với nhau, rồi lại quay ra tức giận nhau, chửi rủa nhau chán chê, sau vài ngày lại trở lại làm lành, để rồi lại tiếp tục cái chu kỳ luẩn quẩn ấy hầu như trở thành một nếp hành xử của người bình dân từ nhiều đời nay.

Người Việt nam rất hay chửi. Thói quen thông thường là chửi thề mỗi khi nói chuyện hay gặp một sự bực tức nào đó. Khi có sự xích mích với nhau thì chửi cạnh, chửi khoé, chửi đổng, chửi tay đôi và có khi cả làng cả họ cùng chửi. Có một điều đáng nói là khi chửi nhau bao giờ người ta cũng phải đem những cái tục tĩu ra mà nói, mà chỉ chỏ hay gán cho nhau làm của ăn thì mới chịu được.

Cái thói quen xử dụng ngôn từ tục tĩu khi tức giận hay chửi bới phải chăng cũng bắt nguồn từ những ẩn ức vô thức đối với kẻ thống trị. Nền đạo đức lễ nghĩa cũng như những cấm đoán xã hội thuộc về luân lý áp đặt lên người dân Việt vốn bắt nguồn từ những giáo điều của triết học Trung quốc. Người dân Việt vì mối thù hận một ngàn năm bị áp bức trong vô thức chi phối cho nên chỉ khi con người tức giận lên, họ mới có thể bộc lộ, và hình thức đầu tiên là phơi bày những cái mà nền đạo đức này coi là xấu xa như một sự phản kháng lại người Trung hoa một cách gián tiếp. Lâu dần hình thức này trở thành một phản xạ tự nhiên của người dân Việt.

Hành động chửi bới cho thấy người Việt nam đã xử sự theo tình cảm. Khi có những điều thiệt thòi, uất ức hay bực mình, vì không suy xét theo lý trí để tìm nguyên nhân mà giải quyết, mà tình cảm trong lòng thì quá tràn trề cho nên đã bộc phát thành những câu chửi, do đó chửi không phải là phương cách giải quyết vấn đề một cách đúng và hợp lý, nhưng chỉ là cách giải tỏa những tình cảm bực tức đang bị đè nén trong lòng. Vì không biết cách giải quyết vấn đề nên chửi cũng như cái van an toàn để xả bớt những giận dữ, bực tức trong lòng, nếu không con người có thể uất ức lên mà chết.

Mỗi khi có một vụ chửi nhau thì hàng xóm đổ xô tới, con nít người lớn xúm bu lại nghe và xem như đi xem hát. Người ta nghe để giải trí mà cũng có người nghe để học hỏi hầu áp dụng khi hữu sự. Có vụ chửi nhau kéo dài ngày này sang ngày khác, chỉ tạm nghỉ để ăn uống cầm hơi xong lại chửi tiếp cho tới khi một bên nào đó không còn sức để chửi nữa bị xem như thua mới thôi. Trong cái cuộc sống mà cá nhân lúc nào cũng liên hệ với gia đình, với giòng họ, thì khi chửi nhau người ta cũng phải làm sao lôi cả giòng họ vào khiến cho nhiều khi chuyện cá nhân cỏn con cũng có thể trở thành cuộc chửi rủa của hai gia đình.

Thường những gia đình càng đông con gái, càng có nhiều "mụ o nỏ mồm" thì cuộc chửi càng kéo dài, càng sôi nổi. Nhà nào ít người thì áp dụng chiến thuật chửi cầm chừng, chọc cho đối phương chửi mãi không còn hơi để chửi tiếp thì mới nhảy ra múa may lên giọng đắc thắng.

Cái lối chửi nhau này không phải chỉ có ở thôn quê ngày xưa mà ngay trong các xóm nghèo hay xóm lao động tại thành thị thì hiện tượng này vẫn xảy ra thường xuyên, có điều người dân sống ở thành thị bị gò bó bởi luật pháp cũng như còn bị chi phối bởi nhiều công việc khác cho nên những cuộc chửi nhau ít khi có thể kéo dài và thường không còn mấy khi gây được hứng thú cho người chửi lẫn người nghe như ở thôn quê.

Với nếp sống văn minh hiện nay, hiện tượng chửi nhau tưởng chừng như không còn xảy ra ở từng lớp được coi là có văn hóa, nhưng thực ra nó đã được biến thái qua những hình thức mới. Người ta không còn phải nhảy xổ ra đường chửi nhau bằng miệng nhưng người ta có thể chửi nhau bằng báo chí, truyền thanh truyền hình và khán giả không cần phải bu quanh để nghe mà có thể chỉ nằm thoải mái tại nhà bấm nút cái radio, TV, hay giở tờ báo ra đọc. Chính vì những hiện tượng này vẫn còn thấy xảy ra trong đời sống xã hội mà ta có thể nói cái tập quán chửi vẫn còn sống trong tâm hồn người dân Việt.


3.- QUANH CHIẾC VÕNG ÐONG ÐƯA


Có thể nói dân tộc Việt nam là một dân tộc mang nhiều nghịch lý nội tại. Nhìn ở một mặt nào đó, chúng ta thấy người Việt nam rất hiền hòa, chất phác, rất thâm trầm và rất đáng yêu, nhưng nhìn ở mặt khác chúng ta lại thấy con người Việt nam rất nóng nảy, rất bồng bột, mang nhiều hận thù và khi có dịp là bộc lộ ra bằng những ngôn ngữ hay hành động cộc cằn thô lỗ không kém. Riêng về phương diện ngôn ngữ, nếu chúng ta yêu thích nhưng câu ca dao, những điệu hát câu hò chan chứa tình cảm thương yêu thì chúng ta cũng không thể nào không sửng sốt khi người Việt nam xử dụng ngôn ngữ để bộc lộ nỗi tức giận của mình, một ngôn ngữ chanh chua, tàn bạo và cũng rất dồi dào từ ngữ âm điệu để diễn đạt.

Ðối với lớp trẻ em Việt nam ngày nay tuy mang dòng máu Việt trong người nhưng không sinh ra trên đất nước vì cha mẹ đã lìa bỏ quê cha đất tổ để tìm một cuộc sống mới nơi xứ người thì lời mẹ ru, tiếng hàng xóm chửi rủa nhau hầu như là một điều xa lạ. Nhưng trong bốn ngàn năm qua, và ngay cả trên mảnh đất quê hương hiện nay, bao nhiêu thế hệ trẻ Việt nam đã sinh ra và lớn lên trong những làn âm thanh ấy tiếp nối đời này qua đời khác.

Quanh chiếc võng đong đưa là cả một cuộc sống thực tế của cuộc đời được biểu lộ qua không biết bao nhiêu âm thanh của ngôn ngữ. Lời mẹ ru ngọt ngào với những lời lẽ thiết tha của một cuộc sống thật êm đềm và rạt rào tình thương như mở ra cho tâm hồn đứa bé những tình cảm bao la với cuộc đời. Những lời nói trìu mến, những bài ca dao tình cảm, tuy đơn sơ nhẹ nhàng nhưng cũng thật là thắm thiết mà mọi bà mẹ Việt nam vẫn từng ru con bên chiếc võng đong đưa qua bao nhiêu thế hệ đã làm cho những đứa trẻ sau này lớn lên không bao giờ quên mẹ và quê mẹ.

Nhưng bên cạnh lời mẹ ru còn xen lẫn không biết bao nhiêu là tiếng bấc tiếng chì: Tiếng mẹ chồng đay nghiến nàng dâu, tiếng bà mẹ ghẻ nhiếc móc con riêng của chồng, tiếng chồng mắng chửi vợ, tiếng vợ than thân trách phận kể lể tỉ tê, tiếng than khóc vật vã của những người trong gia đình vừa mới mất đi một người thân yêu, tiếng hàng xóm láng giềng chửi nhau vì một con gà bị mất trộm hay nhiều khi thậm chí chỉ là một lời mách lẻo bâng quơ. Những cái đó cũng là những bài học nhắc nhở cho đứa bé cuộc đời không phải chỉ có tình thương và yên vui mà còn không biết bao khó khăn vất vả của những cái thực tế xung quanh hằng ngày. Ngay cả trong tình thương của người mẹ đối với các con của mình cũng đôi khi có cảnh con yêu con ghét:

Mẹ ơi đừng đánh con đau
Ðể con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Bắt ốc, ốc lủi vô bờ
Hái rau, rau héo, mẹ nhờ gì đâu.


Theo với đà lớn lên trong cuộc sống, những lời mẹ ru vắng dần đi nhưng âm vang của tiếng cồng thì càng ngày càng nhiều và càng mãnh liệt. Những lời mẹ ru hoà lẫn với tiếng "mụ o nỏ mồm" sẽ làm thành bản đại hoà tấu ảnh hưởng vào tâm hồn đứa trẻ, lắng vào trong tiềm thức, để rồi khi đã trở thành người lớn, những ẩn ức này sẽ tác động lên hành vi của con người ấy. Tuy nhiên lời mẹ ru thủa ban đầu vẫn như là một nỗi ám ảnh về một thời đại hoàng kim thủa còn trong bụng mẹ như quan niệm của nhà tâm lý học Freud.

Có lẽ do ảnh hưởng của nếp sống tình cảm này mà người dân Việt nào cũng rất yêu quê hương, cũng gắn bó với gia đình, nhưng đối với quốc gia qua bao nhiêu triều đại, việc điều hành đất nước cũng lại chỉ biết hành xử theo kiểu "Thương nhau lắm cắn nhau đau" tìm đến nhau khi hữu sự, cấu xé nhau khi quyền lợi bị sứt mẻ, khen nhau đó, chửi bới nhau khi không vừa ý mình, rồi lại quên đi khi qua cơn xúc động tâm lý, chứ không theo luận lý của lý trí.

Riêng trong giai đoạn lịch sử vừa qua, chính đạo quân thứ năm các bà đã đóng góp không nhỏ cho tập đoàn cộng sản Việt nam trong việc thực hiện các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh địch vận, hay tuyên truyền rỉ tai chống đối phương bằng cái tài ngồi lê đôi mách và chửi bới hay ăn vạ. Cộng sản cũng đã lợi dụng cái khuynh hướng xử sự theo tình cảm này của người dân Việt để lèo lái người dân cứ vô tình dành tất cả những gì là thương yêu trìu mến cho đảng, đồng thời trút hết những cái bực tức, căm hờn lên đầu những kẻ được coi là kẻ thù của chế độ, khiến cho người dân cứ bị cộng sản mê hoặc trong vòng luẩn quẩn của cái chủ thuyết không tưởng của họ mà không có lối thoát.

Do đó chừng nào người dân Việt chưa nhận thức được quốc gia như một thực thể chính trị cần phải được tổ chức và điều hành theo những nguyên tắc của lý trí mà còn xem quốc gia như một di sản để tranh giành hay chỉ là môi trường để con người thể hiện những tình cảm ước muốn riêng tư thì quốc gia nếu không bị nạn độc tài thao túng, cũng lại tiếp tục là con thuyền bồng bềnh trôi nổi như lời hát mà Phạm Duy đã diễn tả trong bản Tình ca.

ĐOÀN VĂN KHANH


No comments:

Post a Comment