1.- SỐNG PHẢI CHO CÓ TÌNH CÓ NGHĨA
Dân tộc Việt nam
có một đặc tính cố hữu, đó là thói quen thích sống dựa
vào gia đình, họ hàng và làng xóm. Cuộc sống dựa vào nhau
làm nảy sinh sự cần thiết phải có một lẽ phải nào đó
để con người giữ được mối giao hảo trong cuộc sống
chung đụng. Chính vì thế mà mọi người mới bảo nhau, sống
trên đời phải biết ăn ở làm sao cho có tình có nghĩa.
Tình nghĩa là
do mối tương quan xã hội mà nảy sinh cho nên hễ có tương
quan là có thể nói đến tình nghĩa. Do đó mà mỗi một người
đều có không biết bao nhiêu là mối tình nghĩa ràng buộc:
từ tình nghĩa gia đình, vợ chồng, anh em, họ hàng, bè bạn,
xóm giềng, đồng nghiệp v.v..., cho đến tình nghĩa vua tôi,
tình nghĩa dân tộc. Như vậy tình nghĩa được coi như là
cái lẽ phải cần thiết để con người có thể sống hòa
hợp với nhau một cách tốt đẹp, và đồng thời cũng là
tiêu chuẩn dùng để đánh giá con người về mặt đạo đức.
Vốn bản chất
thiên về tình cảm cho nên trong cuộc sống, người Việt nam
vẫn thường hay lấy tình mà đối xử với nhau hơn là lấy
lý. Do đó mà một khi tình nghĩa khởi xuất từ căn bản tình
cảm thì thường không có quy định rõ rệt, mà chỉ là do
nơi mỗi người tự cảm thấy nên xử sự thế nào cho vừa
mình vừa người, cho nên rất chủ quan và phức tạp, và có
liên quan đến triết lý và tâm lý xã hội của con người
Việt nam, như lời mô tả trong câu ca dao:
Ở cho phải phải, phân phân
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa
Với cái triết lý
sống mang tính chất hiện sinh vì sống có nghĩa là sống với
người khác, và cách nhìn sự vật qua khía cạnh hiện tượng,
người Việt nam thường chỉ quan tâm đến những cái gì có
tính cách cụ thể và thực tế. Ðiều này khiến cho người
Việt nam thường có cái tâm lý nông nổi, hay khoe khoang và
thích những sự phô trương bề ngoài: "Ðẹp tốt phô ra, xấu
xa đậy lại." Cũng vì thế mà tuy tình nghĩa là một đức
tính tốt về tinh thần, nhưng con người cũng cần phải biết
thể hiện nó qua hình thức bề ngoài cho người khác dễ nhận
thấy mới được coi là con người có tình nghĩa. Do đó mà
nảy sinh ra loại tình nghĩa hiện tượng.
Trước hết, tình
nghĩa có thể được biểu lộ bằng lời nói. Muốn tỏ ra
là con người tình nghĩa, con người sống cần nhau thì phải
biết thường xuyên hỏi han, khuyên bảo nhau, san sẻ cùng nhau
những nỗi vui buồn, cũng như biết lo lắng hay an ủi nhau
mỗi khi hoạn nạn. Ðiều trung hậu bao giờ cũng phải là
những điều hợp với đạo lý và thuận với tâm tư tình
cảm của con người, cho nên mỗi người phải biết dùng lời
ăn tiếng nói như thế nào để thể hiện được cái lòng
ưu tư của mình đối với người khác, cũng như làm cho người
khác có cảm tình với mình. "Nói ngọt lọt đến xương "
như câu ca dao mọi người vẫn nhắc:
Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Kèm theo lời nói,
con người còn phải có những việc làm cụ thể khác được
xem như là hành động biểu lộ tình nghĩa. Những thói quen
như thăm viếng nhau, mời nhau chén trà hay điếu thuốc, mời
nhau ăn bữa giỗ hay đám cưới đám khao, cũng như cái lệ
cho quà nhau ngày lễ, ngày tết đều được coi như là những
hành động không thể thiếu trong cuộc sống tình nghĩa. Ngoài
ra, trong đời sống thường ngày, khi nhờ cậy người khác,
hoặc giả khi được người khác giúp mình một việc gì,
người thụ nhận sự giúp đỡ phải biết rằng làm như thế
là mình đã mang ơn người khác. Do đó mà muốn tỏ ra mình
cũng là người có tình có nghĩa, người thụ ơn phải biết
tùy theo mức độ mang ơn người khác mà hoặc là quà cáp
biếu xén khi này khi khác, hoặc là có khi còn phải biết xả
thân để gọi là đền đáp công ơn người giúp mình. Ðây
cũng là sự thể hiện luật công bằng có vay có trả theo
đạo đức.
Những thói quen
này vẫn được coi như những tập tục tốt đẹp vì có tác
dụng làm cho con người trở nên gắn bó với nhau hơn. Tuy
nhiên, nhiều khi do tình cảm chủ quan hay động cơ ích kỷ
sai khiến làm cho con người chỉ chú trọng đến khía cạnh
hiện tượng mà bỏ quên cái căn bản đạo đức của tình
nghĩa, khiến gây ra những hành động có khi phản lại cái
ý hướng tốt đẹp về mặt tinh thần, làm cho tình nghĩa
bấy giờ chỉ còn là những hiện tượng giả dối hay phù
phiếm, và điều này mới là cái đáng nói đến của vấn
đề tình nghĩa phức tạp này.
2.-CON KỲ NHÔNG BIẾU ÔNG
Ca dao có một bài
mô tả cái nếp sống tình nghĩa rất tiêu biểu của dân tộc
Việt nam:
Sáng sớm mai tôi đi ra đồng, tôi bắt được con kỳ nhông
Ðem về cho ông, ông cho trái thị
Ðem về cho chị, chị cho bánh khô
Ðem về cho cô, cô cho bánh ú
Ðem về cho chú, chú cho buồng cau...
Từ một món quà
đầu tiên, qua hành động "có đi có lại" vì tấm lòng nghĩ
đến nhau, đã tạo thành một cái vòng liên hệ rộng rãi,
đưa đến mối quan hệ tình nghĩa chằng chịt nhiều người.
Nhưng động cơ của tình nghĩa lại là tình cảm nên một
khi tình cảm bị va chạm hay bị sứt mẻ vì một lý do nào
đó, thì tình nghĩa cũng không còn ý nghĩa gì nữa, do cái
tâm lý "yêu nên tốt, ghét nên xấu". Thế là người ta lại
nghĩ đến cái người ta đã bị mất đi mà không mang lại
tình nghĩa, bởi vì "của là núm ruột", cho nên mới có chuyện:
Ðến khi sinh sự cãi nhau
Trả buồng cau cho chú
Trả bánh ú cho cô
Trả bánh khô cho chị
Trả trái thị cho ông
Ông ơi ông! Trả con kỳ nhông lại
Khi đòi lại quà
thì cũng vì cái vòng liên hệ chằng chịt lúc cho nhau, khiến
cho vòng tình cảm cũng bị sứt mẻ, và kéo theo sự mất tình
mất nghĩa lây với nhiều người. Như vậy tình nghĩa hình
thức thường không có tính cách tự tại mà chỉ là hiện
tượng lệ thuộc tính cách tự phát của tình cảm, nên cũng
có thể xuất hiện hay biến mất tùy theo tình cảm lúc vui
lúc buồn.
Lúc thương nhau, cho đường thêm bánh
Buổi ghét nhau, tay đánh miệng la
Có thể nói đây
là cái kiểu tình nghĩa rất thông thường của dân tộc Việt nam. Vừa mới tình nghĩa với nhau đó, bỗng chốc quên hết
tình nghĩa. Rồi một lúc nào đó cơn giận dữ qua đi, người
ta không còn ghét bỏ nhau mà lại cần đến nhau, thì những
món quà cho đi cho lại để làm lành lại đưa con người trở
về với tình nghĩa và cái vòng luẩn quẩn cứ thế mà tiếp tục.
Trong đời sống
hằng ngày, thói quen quà cáp hay biếu xén là một hành động
thường xuyên của người Việt nam. Tuy những sự biếu xén
quà cáp này thường là do tự ý và trông bề ngoài thì có
vẻ như là một sự cho đi, nhưng thật ra lại luôn luôn có
ngụ ý trao đổi hai chiều. Người cho không đòi hỏi rõ ràng,
nhưng trong thâm tâm vẫn trông đợi người được cho cũng
phải có một hành động tương ứng. Người nhận dù không
muốn đi nữa, cũng phải nghĩ rằng khi mình nhận một món
gì của người khác là mình đã nợ người khác. Do đó mà
muốn cho tình cảm tốt đẹp thì phải biết "có đi có lại,
mới toại lòng nhau". Chính vì thế mà cái món quà cho đi thường
không có nghĩa là cho đứt mà giống như là cho vay hay cho mượn,
cho nên người nhận quà bao giờ cũng phải ý thức về món
nợ này. Như vậy tình nghĩa cũng là một cái ơn và nợ lòng
vòng xuất phát từ tình cảm, mà tình cảm thì bao giờ cũng
chủ quan và ích kỷ, do đó tình nghĩa cũng theo tình cảm mà
biến hóa khôn lường.
Vì những cái
quà cáp biếu xén là cốt để tỏ tình ưu ái với nhau cho
nên cũng có khi tuy "của ít" nhưng "lòng nhiều", thành thử
cái nợ tình nghĩa thường không căn cứ trên giá trị của
món quà mà đánh giá tấm lòng. Nhưng tấm lòng thì lại là
cái gì rất mơ hồ và trừu tượng, khó đo lường, cho nên
người ta vẫn cứ phải dựa vào cái giá trị vật chất để
xét lòng nhau.
Mặt khác, trong
cái cuộc sống lúc nào cũng là sống với người khác, sự
liên hệ có thể không nhất thiết là đều do cảm tình quý
mến nhau, mà nhiều khi còn do hoàn cảnh giao tế bắt buộc,
cho nên người ta cũng có thể dùng cách thức mời mọc nhau
hay giá trị của món quà cho nhau để biểu lộ cái tâm tình
thầm kín bên trong đối với nhau:
Yêu nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu, bổ ra làm mười
Tuy yêu thích sự
tình nghĩa, con người Việt nam cũng có nhiều tính xấu như
thích xoi mói, khen chê bắt bẻ người khác, khiến cho việc
ăn ở được lòng nhau không phải là dễ dàng. Hào phóng hay
là keo kiệt đều có thể bị ngưòi đời bình phẩm như lời
ca dao vẫn nói:
Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Ngoài ra, vì xã hội
cũng thường hay đánh giá đạo đức con người qua hiện tượng
tình nghĩa bên ngoài cho nên nhiều khi có những người lại
quên đi cái căn bản đạo đức của tình nghĩa mà chỉ biết
hành động theo lối hình thức phô trương cốt để lấy tiếng
ngoài xã hội. Có biết bao trường hợp cha mẹ già bị con
bỏ phế, nhưng khi cha mẹ chết rồi thì con cái lại lo việc
ma chay hay cúng giỗ linh đình để phô trương cái lòng hiếu
thảo của mình. Công ơn cha mẹ sinh thành lẽ ra phải được
con cái báo đáp lúc cha mẹ còn sống chứ không phải bằng
cách vẽ vời những hình thức tưởng nhớ phô trương khi
cha mẹ đã chết.
Sống thời con chẳng cho ăn
Chết thì cúng giỗ, làm văn tế ruồi
Tình nghĩa trong những
trường hợp này chỉ còn là hình thức giả dối của những
con người thiếu đạo đức nhưng lại muốn tỏ ra mình đạo
đức để che đậy cái mục đích ích kỷ.
3.-NGỌN CỎ NGOÀI ÐỒNG TRÂU ĂN
Nhưng tình nghĩa
không phải chỉ giới hạn trong phạm vi con người với con
người mà còn có thể nới rộng ra giữa con người và các
loài sinh vật có liên hệ với cuộc sống của con người.
Tiêu biểu cho cái tình nghĩa giữa người và vật có bài ca dao:
Trâu ơi! Ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ lúa chín đầy bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Trước đây, đa
số dân Việt nam vẫn sống về nghề nông, quanh năm gắn bó
với mảnh ruộng, con trâu và cái cày. Sự ấm no của con người
ngoài việc lệ thuộc vào những điều kiện thiên nhiên, còn
phải kể không biết bao là công lao mồ hôi của con người
và súc vật. Suốt mấy ngàn năm sống trong cảnh "chồng cày,
vợ cấy, con trâu đi bừa", con trâu là một con vật rất gần
gũi với con người và có công rất nhiều trong việc cọng
tác với con người trong lao động sản xuất. Ðiều này tạo
cho mối tình cảm của người đối với trâu trở thành thắm
thiết. Vì thế mà bài ca dao trên được coi như là một sự
biểu lộ cảm tình chan chứa của con người đối với con
vật đã có công giúp mình.
Vừa mới nghe
qua bài ca dao thì tưởng chừng như mối tương quan giữa người
và trâu thật là tình nghĩa, nhưng suy nghĩ lại thì mới thấy
trong cái tình nghĩa này hiển hiện tất cả cái đầu óc bóc
lột kẻ khác và thủ lợi cho mình của con người. Trâu nai
lưng ra kéo cày để giúp người sản xuất ra lúa gạo nuôi
sống con người nhưng ngược lại, trâu được hưởng gì
trong việc bỏ công lao động này? Câu trả lời là: "ngọn
cỏ ngoài đồng". Ðó là chưa nói đến sự kiện trong thực
tế, khi con trâu không còn sức để kéo cày thì con người
cũng không ngần ngại đem trâu ra giết lấy thịt ăn, lấy
sừng làm đồ dùng, lấy da bịt trống v.v...
Tuy bài ca dao mô
tả cái tình nghĩa giữa người và vật, nhưng thực ra đó
cũng là một khía cạnh tình nghĩa giữa con người với con
người rất phổ biến trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh
với môi trường sống để sinh tồn, những sự gian lao và
vất vả khiến cho con người dễ trở nên ích kỷ và nhỏ
nhen, đưa đến "cái khó nó bó cái khôn", nên hễ có cơ hội
hay điều kiện là con người thường quay ra khai thác bóc lột
người khác để mang phần lợi về cho mình.
Khi hành động
vì mục đích tư lợi thì bao giờ cũng "Ðược lòng ta, xót
xa lòng người" cho nên người khôn khéo và có thủ đoạn
vẫn hay đem những điều tình nghĩa hình thức ra để dụ
dỗ hay xoa dịu kẻ khác. Những lời nói tình nghĩa đã trở
thành một lợi khí để cho con người khai thác hoặc lợi
dụng nhau một cách êm đẹp.
Thông thường
người hiền lương vẫn yêu thích những điều đạo nghĩa,
nhưng lại dễ bị xúc động về mặt tâm lý và thiếu suy
luận theo lý trí, do đó mà một khi nghe một lời nói vừa
tai thì cũng cho là điều nói phải, thành thử dễ bị lợi
dụng để rồi cuối cùng mới nhận ra cũng vì chút tình nghĩa
mà phải "đau lòng vì bạn, khốn nạn vì đồng hương". Nhưng
vì cuộc sống cứ phải dựa vào nhau thì dù có không muốn,
họ cũng đành phải chấp nhận nhau để mà sống, hoặc cũng
có thể coi như đó chỉ là cái hiện tượng "Yêu nhau lắm,
cắn nhau đau".
Cũng do cái tâm
lý thích khoe khoang và thích được người khác khen mình, cho
nên nhiều khi có những kẻ biết rằng người nào đó không
tốt, không thật tình mà chỉ muốn lợi dụng mình, nhưng
chỉ vì người đó ăn nói ra vẻ có tình có nghĩa, thành thử
cứ bám vào niềm tin đó để rồi "ngọt mật chết ruồi",
hoặc là "Ðược tiếng khen, ho hen chẳng còn". Ngoài ra, với
cái tinh thần tình nghĩa ăn sâu vào tiềm thức khiến cho con
người hành động gì cũng có thể nói đến tình nghĩa, ngay
cả khi con người xử ác với nhau. Chẳng thế mà nhiều khi
vì những mục đích ích kỷ hay quyền lợi riêng tư, người
ta còn nhẫn tâm giết nhau, nhưng vẫn có thể che đậy những
hành vi tàn nhẫn và độc ác dưới những lời lẽ hay hình
thức tình nghĩa bề ngoài để che miệng thế gian như bài
ca dao sau:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn, mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng, khóc ngồi
Mẹ ơi, đi chợ mua tôi đồng riềng
Con gà, con lợn là
những con vật người ta nuôi để giết thịt cho nên tình
cảm của con người đối với những con vật này nếu có
cũng chỉ là một chút động lòng nào đó đối với một
sinh vật. Nhưng con chó là con vật thân cận của con người,
vẫn được kể là người bạn trung thành của con người
và lúc nào cũng một lòng giúp chủ và bảo vệ chủ, tất
nhiên có thể có tình nghĩa. Thế mà con người thì trái lại
có thể đem chó ra giết thịt mà không ân hận, lại còn bảo
tại vì con chó khóc đòi mua riềng cho nó. Dựa trên cái lối
lý luận kiểu này mà xét lòng người thì quả thật cái tình
nghĩa của con người cũng phức tạp vô cùng. Trên đời cũng
không thiếu gì kẻ hiền lành thật thà, mang trong lòng cái
mặc cảm tình nghĩa chân thành trong cuộc sống, nên cứ tận
tụy hy sinh cho người khác để rồi khi bị người khác trừ
khử hay không còn được sủng ái thì cũng chỉ biết than
thân mà thôi.
Tình nghĩa chỉ
có thể là một tương quan tốt đẹp khi mà các đối tượng
có liên hệ với nhau cùng đặt mối tương quan đó trên căn
bản đạo đức. Nếu có một bên lợi dụng mối tương quan
đó và một bên vẫn bám vào tình nghĩa thì nhiều khi tình
nghĩa chỉ mang lại sự thiệt thòi hay là sự ray rứt cho kẻ
thật thà vì trót tin tưởng vào sự tốt đẹp của mối quan
hệ tình nghĩa.
Trong lãnh vực
chính trị, cái chiêu bài tình nghĩa vẫn thường được các
nhà cai trị xưa nay xử dụng rất nhiều đối với dân chúng
để chiếm đoạt và củng cố quyền hành cho mình. Ðặc biệt
là trong giai đoạn lịch sử từ cuộc Khởi nghĩa 45 của dân
tộc Việt nam, người cộng sản đã lợi dụng một cách tinh
vi cái tinh thần tình nghĩa, cũng như cái lòng yêu công bằng
và lẽ phải mà người dân hiền lành vẫn hiểu theo lối
chất phác của mình, để bắt người dân cứ tận tụy hy
sinh cho họ đấu tranh thực hiện tới cùng những mưu đồ
cũng như tham vọng chính trị của họ.
Những khẩu hiệu
thật dòn dã như "tình dân tộc, nghĩa đồng bào", "mỗi người
vì mọi người và mọi người vì mỗi người", "vì độc
lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của toàn dân", hay là "vì
tương lai con cháu muôn đời mai sau" chẳng qua cũng chỉ là
những mỹ từ mà người cộng sản đã khôn khéo lợi dụng
để khêu gợi cái tinh thần tình nghĩa dựa trên những tình
cảm thật thà của người dân để bắt người dân cứ mãi
mãi vướng mắc vào đó.
Cũng vì cái tinh
thần tình nghĩa mà người dân miền Bắc, cũng như những
người vốn là con dân miền Nam nghe theo lời Ðảng dạy, tập
kết ra Bắc để xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, đã phải
trải qua hai thập niên "Thắt lưng buộc bụng" lo nhịn ăn
nhịn mặc, ngày đêm nỗ lực chiến đấu bất kể mọi gian
lao nguy hiểm, quyết tâm giải phóng miền Nam, chỉ vì xót
thương người anh em miền Nam phải sống đọa đày dưới
ách thống trị của "bè lũ Mỹ Ngụy".
Ngày đất nước
thống nhất, những người anh em từ miền Bắc lại vì chút
tình nghĩa, dè xẻn dăm ba ký gạo, chắt bóp mua vài món quà
sản phẩm quốc doanh, hay chục chén dĩa do nhà máy sứ Hải
Hưng sản xuất, loại không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang
các nước xã hội chủ nghĩa anh em, khệ nệ kéo vào Nam thăm
anh em ruột thịt hơn hai mươi năm xa cách, để rồi mới thấy
những món quà tình nghĩa của mình quả thật là bẽ bàng.
Nhưng đó mới chỉ là một chút chua xót về thực tế vật
chất. Còn cả một nỗi cay đắng về tinh thần và những
hy sinh xương máu mà người dân miền Bắc cùng những người
con dân miền Nam đã đổ ra trong bao nhiêu năm chỉ vì cái
tấm lòng mang nặng nghĩa tình một cách thật thà bị lợi
dụng mới là vấn đề đáng nói.
Ngoài ra còn phải
kể cả những con người vì lý do chính trị mà bắt buộc
phải bỏ nước ra đi tỵ nạn sau ngày chế độ miền Nam
bị sụp đổ, mang trong lòng tâm sự của kẻ bị lưu đày,
nhưng cũng vì cái mặc cảm tình nghĩa với những người ruột
thịt hoặc đồng bào còn ở lại quê nhà mà vẫn cứ lo làm
sao kiếm tiền gửi về giúp thân nhân. Hành động này có
thể khiến cho chế độ bất công và độc tài mà họ từng
chạy trốn có cơ hội kéo dài sự tồn tại nhờ vào sự
bòn rút ngoại tệ của những người dân Việt tha thương
để củng cố quyền hành. Và cái vòng luẩn quẩn cứ thế
mà kéo dài mãi không thôi.
Cũng vì tình nghĩa
là cái lẽ phải phát xuất từ lương tri của mỗi người
chứ không dựa trên những nguyên tắc của lý trí suy luận
cho nên nhiều khi do nơi cái lương tri của mỗi người mà
không đồng nhất. Người chịu thiệt thòi đôi khi cũng có
thể ý thức về điều đó, nhưng vì không tìm ra được cái
lẽ phải nào khác hơn cái lẽ phải mà họ cảm nhận như
có vẻ bất công, nên cũng cứ đành chấp nhận cho đúng với
lương tri của mình. Còn kẻ nào đó khi làm một điều ác
vẫn có thể cho rằng họ không hề phạm vào điều ác, chỉ
vì lương tri của họ không hề cắn rứt, do đó mà họ vẫn
có thể nghĩ là họ đã xử sự theo tình nghĩa. Vì những
lẽ đó mà nhiều khi tình nghĩa cũng còn là một cái gì rất
nghịch lý trong tâm hồn của mỗi con người.
4.-TẤM LÒNG CỦA CÒ
Cũng trong cái tinh
thần tình nghĩa của dân tộc Việt nam còn có một khía cạnh
đặc biệt khác nữa của cái mặc cảm đền ơn đáp nghĩa
được biểu lộ trong bài ca dao sau đây:
Con cò mà đi ăn đêm
Ðậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ! Ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Ðừng xáo nước đục, đau lòng cò con
Khi con cò chẳng
may rớt xuống ao thì cũng kể như mình đã chết nên khi được
có kẻ vớt lên thì cò đã mang sẵn trong lòng một cái ơn
phải trả. Do đó mà kẻ vớt cò lên có xử sự với cò cách
nào thì cò cũng cam lòng. Nếu kẻ vớt cò không thương xót
cò mà chỉ biết đem cò ra làm thịt thì cò cũng chỉ còn
biết xin được xáo với chút nước trong cho đỡ tủi mà
thôi.
Trong trường hợp
con người với nhau thì một khi cái ý thức mang ơn nợ và
cái tình nghĩa phải đền đáp có những xung đột vì nghịch
cảnh không lối thoát, thì có thể một bên liên hệ đành
chấp nhận một giải pháp hy sinh hay thiệt thòi nào đó để
coi như mình đã giữ tròn ơn nghĩa. Một Thúy Kiều sau mười
lăm năm lăn lóc chốn giang hồ, cuối cùng ngày tái hợp vẫn
còn xin giữ một chút trinh trong lòng với Kim Trọng cho trọn
chút tình nghĩa ban đầu là một trong những thí dụ điển
hình cho cái nỗi ray rứt này.
Ngày xưa đã từng
có nhiều trung thần cam phận chết để thấy mình giữ tròn
ơn nghĩa vua tôi thì ngày nay, trên phương diện chính trị,
cũng có không biết bao nhiêu kẻ chỉ vì chút mặc cảm tình
nghĩa trong lòng mà đành mang cái nỗi lòng của con cò. Và
trong vô số những tấm gương tiết nghĩa, hay những con người
được người khác tuyên dương như những kẻ "vì nước quên
mình", "anh hùng liệt sĩ", hoặc là "Tổ quốc ghi công", có
biết bao trường hợp họ chỉ là những con người bị kẻ
khác lợi dụng đưa đẩy vào cuộc hy sinh để rồi được
người đời tặng cho chút tiếng thơm để an ủi cho con cháu,
cũng giống như cò được kẻ cứu mình đem ra xáo với chút
nước trong cho khỏi đau lòng cò con.
Cái tinh thần
tình nghĩa là một nét đặc sắc trong tâm hồn người Việt
nam. Nó là một niềm an ủi cho con người trong cuộc sống
đầy đau khổ. Nhưng mặt khác, nhiều khi vì thiếu sự hướng
dẫn của những nguyên tắc lý trí, làm cho con người không
phân tích để biết được đâu mới là cái lẽ phải chính
xác, khiến cho tình nghĩa trở thành cái vòng luẩn quẩn của
những tình cảm hỉ, nộ, ái, ố cùng với những dục vọng
của con người không hơn không kém. Nhưng với cái quan niệm
sống có tính cách hiện sinh thì tình nghĩa, kể cả tình nghĩa
hiện tượng, vẫn là một cái gì đó mang lại chút ý nghĩa
về cuộc đời cho con người. Do đó mà con người vẫn cứ
phải loanh quanh với đủ mọi thứ hiện tượng tình nghĩa
trên đời.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment