Người Việt nam vẫn thường nói: "Làm người phải có đạo lý." Câu nói này đã trở thành một tiền đề để cho con người tự hào về giá trị hành vi của mình hay phê phán hành vi của kẻ khác. Nhưng cái đạo lý làm người ấy như thế nào thì đây mới là vấn đề đáng bàn.
1.- LẼ CÔNG BẰNG TRONG TRỜI ÐẤT
Vào thời còn sống
trong nền văn minh bộ lạc, do sự khiếp sợ trước những
mãnh lực thiên nhiên mà người Việt nam đã tin rằng, ngoài
cái thế giới hữu hình con người sinh sống này còn có một
thế giới vô hình thần bí của các vị thần linh, các bậc
tiên thánh, và cả ma qủy nữa.
Các thế lực này tuy vô hình nhưng hình như lại có quyền năng tác động đến đời sống con người cho nên con người phải biết kính sợ. Do đó mà con người phải biết làm những điều tốt và tránh điều xấu để cầu mong được các thần linh che chở hay tránh bị ma qủy quấy nhiễu. Ngoài ra, do cuộc sống gắn bó với nhau qua nhiều thế hệ làm nảy sinh mối cảm tình khắng khít khiến cho con người không muốn nghĩ rằng những người mình yêu thương sẽ vĩnh viễn trở thành mất mát. Do đó mà người Việt nam còn cho rằng người chết đi chưa có nghĩa là hết, mà anh linh người chết vẫn còn tồn tại ở một thế giới khác, và có thể tìm về bên cạnh con cháu để báo mộng hoặc phù hộ cho con cháu gặp điều may, tránh được điều rủi.
Các thế lực này tuy vô hình nhưng hình như lại có quyền năng tác động đến đời sống con người cho nên con người phải biết kính sợ. Do đó mà con người phải biết làm những điều tốt và tránh điều xấu để cầu mong được các thần linh che chở hay tránh bị ma qủy quấy nhiễu. Ngoài ra, do cuộc sống gắn bó với nhau qua nhiều thế hệ làm nảy sinh mối cảm tình khắng khít khiến cho con người không muốn nghĩ rằng những người mình yêu thương sẽ vĩnh viễn trở thành mất mát. Do đó mà người Việt nam còn cho rằng người chết đi chưa có nghĩa là hết, mà anh linh người chết vẫn còn tồn tại ở một thế giới khác, và có thể tìm về bên cạnh con cháu để báo mộng hoặc phù hộ cho con cháu gặp điều may, tránh được điều rủi.
Do những tin tưởng
đó mà người Việt nam thường dùng những câu nói như: "Thần
linh cứu giúp", "Ma xui quỷ khiến", "Ông bà phù hộ"
v.v...
Những câu nói đó bộc lộ một sự hàm ý giữa hành động
của con người và tác động của các thế lực vô hình có
liên hệ với nhau, và những điều phúc hay họa mà con người
được hưởng hay phải gánh chịu trên đời này, tuy có sự
can dự của những thế lực vô hình, nhưng nguyên nhân vẫn
là do nơi các hành vi tốt hay xấu của chính con người đã
gây ra trước đó.
Kể từ khi tiếp
xúc với nền văn hoá Trung hoa và nền văn hóa Ấn độ, người
Việt nam cũng đã dần dà tiếp thu những hệ tư tưởng của Nho, Phật và Lão để làm giàu thêm cho cái vốn liếng văn
hóa của mình. Vì những học thuyết trên có khác nhau về
mặt yếu tính cũng như quan niệm về cuộc đời có những
cách thế xuất xử khác nhau, cho nên do mức độ ảnh hưởng
của mỗi học thuyết đối với sự nhận định của giai
cấp sĩ phu lãnh đạo của mỗi thời kỳ có thay đổi mà
những hệ tư tưởng này đã có những lúc tranh nhau ngôi vị
độc tôn trong vai trò lãnh đạo đời sống tinh thần của
quốc gia như đã từng xảy ra trong các thời Lý và Trần.
Tuy nhiên, trên
bình diện đạo đức thì tất cả các học thuyết trên đều
cùng chung một cứu cánh là hướng con người đến chỗ thiện,
cho nên đối với người Việt nam vốn không chú trọng đến
vấn đề siêu hình thì tất cả những giáo điều luân lý
của các học thuyết đó đều được xem như là những nguyên
tắc chung có giá trị như nhau. Riêng đối với người bình
dân thì những quan niệm ấy khi du nhập vào nếp sinh hoạt
trong xã hội lại càng mất đi cái tính chất siêu hình trừu
tượng, mà chỉ còn giữ lại phần các giáo điều tin tưởng,
cho nên đã có thể hòa đồng với những tin tưởng phiếm
thần cố hữu của thời kỳ huyền sử để trở thành một
thứ đạo lý dân gian được phổ cập trong mọi tầng lớp,
kể cả tầng lớp thượng lưu.
Do ý thức những
đe dọa luôn luôn rình rập trong cuộc sống khiến cho con người
thấy cần có một cái lẽ phải nào đó để cho con người
có thể được sống một cách yên lành. Chính vì thế mà
trong thâm tâm mỗi người nảy sinh ra một sự tin tưởng mặc
nhiên vào cái lẽ công bình được đúc kết bằng câu tục
ngữ : "ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ".
Có thể nói đây
là một nền đạo lý xây dựng trên cơ sở của niềm tin
vào một cái lẽ phải được coi như là một công lý trong
trời đất: "có vay thì có trả." Trên bình diện đạo đức,
vay là cái hành động con người đã làm trong cuộc đời và
trả là cái kết quả mà con người đó nhận được. Và theo
đúng lẽ công bằng thì vay thế nào, trả phải thế ấy,
cho nên hành động tốt, tất nhiên hậu quả sẽ lành, và
ngược lại, hành động xấu sẽ đưa lại những hậu quả
không hay.
Vậy thì hệ luận
của sự tin tưởng này là mỗi người nếu muốn thấy mình
được may mắn và hạnh phúc thì hãy làm những điều tốt
và tránh điều xấu, đồng thời khi nhìn thấy sự hạnh phúc
hay đau khổ mà một người nào đó đang hưởng hay phải gánh
chịu, người ta cũng có thể suy luận theo đó để đánh giá
hành vi đạo đức của người ấy, vì đó chẳng qua cũng
chỉ là hậu quả tất yếu của các hành vi tốt hay xấu mà
người ấy đã gây ra trong cuộc đời.
Do quan niệm triết
lý có tính cách hiện sinh và cách nhìn sự vật qua hiện tượng,
người Việt nam thường tin tưởng vào cái giòng sống liên
tục từ thế hệ này truyền qua thế hệ khác, và sự hiện
hữu của mỗi cá nhân chỉ là cái mắt xích trong chuỗi hiện
hữu của một giòng họ. Như vậy, khi một người chết đi,
điều ấy không có nghĩa là sự hiện hữu của người đó
đã hoàn toàn chấm dứt, mà chính là vẫn còn hiện hữu gián
tiếp qua những thế hệ sau đó. Cũng vì thế mà bất cứ
hành vi nào của một người không phải chỉ là nguyên nhân
đưa đến cái hậu quả tốt hay xấu cho riêng cá nhân ấy
ngay trong cuộc sống hiện tại, mà còn có thể truyền thừa
qua các đời con đời cháu, cũng như những hậu quả tốt
hay xấu mà con người đó nhận được trong kiếp sống hiện
tại không nhất thiết chỉ là hậu quả các hành vi của chính
mình, mà nhiều khi còn có thể là do những hành vi nguyên nhân
từ những thế hệ cha ông để lại. Những câu tục ngữ
như: "Phúc đức ông bà để lại", "Cha mẹ hiền lành để
đức cho con", "Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước"...là
những biểu lộ về mối liên hệ kế thừa nguyên nhân và
hậu quả trong hành vi của con người theo quan niệm này.
Mặc dù những
tin tưởng triết lý không tiến sâu vào lãnh vực siêu hình
để hệ thống hóa thành một quan niệm nhất quán, người
Việt nam cũng còn tin có một Ông Trời, nhưng không phải một
ông Trời như là đấng tối thượng, nguyên ủy của mọi
sự vật, mà chỉ là một Ông Trời đầy nhân tính vì cũng
biết thương yêu và ghét bỏ, cho nên ông Trời vẫn thường
được xem như là một hiện hữu siêu nhiên để chứng giám
cho cái lẽ công bằng nơi con người. Những tiếng than "Trời
ơi!" mỗi khi gặp bất công, oan ức hay khốn khổ và những
câu nói như: "Trời xanh có mắt", "Ðèn Trời soi xét"... cho
thấy người dân Việt nam vẫn hằng tin vào một cái lẽ công
bằng có sẵn trong trời đất và mong muốn cái lẽ công bằng
ấy được thực hiện.
Do những tin tưởng
đó mà thông thường người Việt nam vẫn có thói quen sống
nhẫn nhục, cam chịu hy sinh nếu thấy mình có phải chịu
thiệt thòi, vì trong thâm tâm mỗi người luôn luôn có một
sự tin tưởng mặc nhiên rằng những bất công khốn khổ
mình phải chịu ngày hôm nay, nếu không được đền bù bằng
hạnh phúc cho chính mình trong kiếp này thì cũng sẽ được
đền bù cho các thế hệ con cháu mai sau. Có lẽ đây cũng
là cái lý do đã khiến cho dân tộc Việt nam vẫn phấn đấu
để tồn tại và vẫn giữ được cái bản sắc của mình
qua suốt một thời gian dài bị người Trung hoa đô hộ và
manh tâm đồng hóa.
Một ngàn năm
Bắc thuộc, phải chịu đựng không biết bao nhiêu điều hà
hiếp bóc lột và nỗi đe dọa bị người Trung hoa tiêu diệt,
người Việt nam đã phải nương tựa vào nhau để có thể
sống còn, do đó tình gia đình và làng xóm càng thêm gắn
bó. Nếu nhờ vào sự biết đùm bọc lẫn nhau này mà người
Việt nam phát triển được cái tình thương yêu đối với
những kẻ cùng chung thân phận thấp hèn và cho rằng đó là
những người ngay lành thì đồng thời người Việt nam cũng
ý thức về một sự thù hận đối với kẻ cai trị giàu
có, hách dịch, khác chủng tộc, vì cho rằng họ chính là
những người ác, chỉ biết gieo sợ hãi và cướp đi cái
lẽ sống của kẻ khác.
Sự áp bức bóc
lột kéo dài triền miên suốt mười thế kỷ đã làm cho con
người Việt nam mang một nỗi niềm cay đắng trong lòng để
biến thành một mối thù kết đọng trong tiềm thức, cho nên
dù rằng bản chất có hiền hòa và yêu mến điều thiện,
người dân Việt nam hình như cũng không thể nào bỏ qua những
bất công mà mình phải chịu, do đó mà có câu ca dao:
Ơn ai một chút chớ quên
Oán ai một chút để bên dạ này
Như vậy thì cái
luật công bằng vay trả cũng chính là cái lẽ phải mà con
người phải chấp nhận. Nhưng nền đạo lý dân gian không
phát xuất từ một quan niệm về yếu tính để xác định
đâu là cái lẽ phải của lý trí mà hầu như chỉ căn cứ
vào cái lẽ phải nơi lương tri của mỗi người, cho nên dễ
mang tính chất chủ quan và bị chi phối bởi cái triết lý
cũng như cách lý luận dựa trên tình cảm của người dân
Việt nam.
2.- CÂU TRUYỆN TẤM CÁM
Với bản chất nặng
tình cảm, người Việt nam hầu như lúc nào cũng nhắc nhở
đến tình người: "Sống phải có tình." Nhưng tình cảm thì
không phải chỉ có thương yêu mà còn cả thù hận. Chính
vì thế mà ngay cả nền đạo lý dân gian cũng mang một sắc
thái đặc biệt vì thường được gắn liền với cái ý tưởng
về nợ "Ơn đền, oán trả ". Cái quan niệm công bằng theo
kiểu này trong đạo đức được thể hiện rất rõ qua câu
truyện Tấm Cám, một câu truyện dân gian có tính cách luân
lý rất phổ cập trong quảng đại quần chúng qua hàng bao
đời nay.
Thông thường
loại truyện có tính cách luân lý đều theo một bố cục
người ngay lành dù có bị gian nan khốn khó cuối cùng vẫn
được hạnh phúc. Kẻ ác bao giờ cũng bị trừng phạt hay
đền tội. Tuy nhiên trong truyện Tấm Cám, nếu hạnh phúc
cuối cùng mà Tấm được hưởng là một sự ân thưởng của
Trời Phật để đền bù lại những đau khổ mà Tấm đã
phải chịu đựng thì trái lại, cái hành động trừng phạt
kẻ ác lại do chính Tấm thực hiện.
Truyện kể rằng
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm hiền lành
xinh đẹp nhưng Cám thì lại xấu người xấu nết. Khi cha
chết rồi, mẹ ghẻ của Tấm độc ác, chỉ thương con ruột
mình là Cám, và ghét Tấm là con riêng của chồng, nên luôn
luôn bắt Tấm phải làm lụng vất vả. Cám cũng giống tính
mẹ nên luôn luôn tìm mọi cách để hành hạ Tấm. Tuy nhiên
Tấm vẫn cam phận, và những lúc quá đau khổ thì cũng chỉ
biết cầu Trời khấn Phật mà thôi.
Có một lần mẹ
Cám sai Tấm và Cám đi tát cá, và hứa ai bắt được nhiều
cá sẽ được thưởng cho chiếc yếm đào. Tấm ham làm nên
chẳng mấy chốc đã bắt được cá đầy giỏ. Cám lười
nhác ham chơi nên suốt buổi không bắt được con nào, sợ
mẹ đem yếm đào cho Tấm, bèn lập mưu chê đầu Tấm lấm
bùn cần phải tắm gội trước khi về kẻo bị mẹ mắng.
Tấm tin lời bèn xuống sông tắm và trong lúc Tấm đang ngụp
lặn cho sạch sẽ thì Cám ở trên bờ đem giỏ cá của Tấm
trút vào giỏ mình rồi mang về lãnh thưởng. Tấm tắm xong
lên bờ nhìn lại giỏ thì cá đã hết sạch, chỉ còn sót
lại một con bống con nên chỉ đành ôm mặt khóc. Bụt thương
hại bèn hiện lên bảoTấm hãy đem con cá còn sót lại trong
giỏ về thả xuống giếng nuôi, và hàng ngày nhớ nhịn bớt
phần cơm của mình để mang ra cho cá.
Tấm bèn theo lời
Bụt dạy mà làm. Mỗi lần cho cá ăn Tấm lại đọc:
Bống vàng bống bạc
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người
Mẹ con Cám thấy
Tấm mỗi bữa đều nhín cơm để dành mang ra giếng liền
theo rình. Khi biết được chuyện này, mẹ Cám bèn sai con mình
một hôm giả bắt chước Tấm mang cơm ra và đọc lời Tấm
vẫn gọi để cá trồi lên ăn cơm. Khi cá vừa trồi lên thì
mẹ con Cám thộp ngay cá mang về làm thịt. Mẹ con Cám ăn
xong đem xương cá quăng ngoài bụi tre. Khi Tấm như lệ thường
mang cơm ra cho cá thì mãi chẳng thấy cá xuất hiện bèn ôm
mặt khóc. Một con gà trống đang bươi đất kiếm ăn gần
đấy thấy Tấm khóc mãi bèn cất tiếng gáy:
Khóc gì mà khóc,
Cho ta nắm thóc, ta chỉ xương cho
Tấm liền lấy thóc
cho gà thì gà chỉ cho Tấm ra chỗ bụi tre. Nhìn thấy cá chỉ
còn là bộ xương, Tấm lại khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm
đừng khóc nữa mà hãy đem xương cá về chôn dưới chân
giường của mình, về sau sẽ được may mắn. Tấm đành làm
theo lời Bụt dạy.
Vào kỳ nhà vua
mở hội, dân chúng nô nức rủ nhau đi xem.Tấm cũng náo nức
xin đi. Mẹ ghẻ muốn bắt Tấm ở nhà cho nên đã đem một
thúng thóc đổ lẫn với đậu bắt Tấm phải lựa riêng ra
cho xong mới được đi. Tấm biết rằng lựa cho xong thúng
thóc lẫn đậu này thì cũng hết hội nên đành ngồi khóc.
Trời Phật động lòng thương liền sai một bầy chim sẻ đáp
xuống lựa giúp Tấm nên chẳng mấy chốc công việc đã xong
xuôi. Tấm hớn hở để đi xem hội nhưng thấy mình không
có quần áo lành lặn nên lại khóc. Bụt lại hiện lên bảo
Tấm đến chỗ chân giường chôn xương cá ngày nọ đào lên
sẽ có quần áo đẹp. Tấm làm theo lời Bụt dạy thì quả
nhiên thấy có đầy đủ quần là áo lụa liền mặc vào đi
xem hội.
Lúc Tấm đi qua
cầu thì đánh rơi mất đôi hài. Khi voi của vua đi đến bờ
sông thì không chịu đi nữa mà dừng lại bên sông rống mãi.
Vua thấy điềm lạ bèn sai quân sĩ xuống sông mò tìm thử
thì lượm được đôi hài đẹp của con gái. Vua cho là duyên
Trời sắp đặt bèn truyền lệnh cho bất cứ người con gái
nào mang vừa vặn đôi hài này sẽ được vua rước về làm
hoàng hậu. Các cô gái và luôn cả Cám nghe tin đều đua chen
ướm thử nhưng không ai mang lọt đôi hài xinh đẹp này. Ðến
lượt Tấm ra ướm thử thì mẹ con Cám dè bĩu:
Chuông khánh còn chẳng ăn ai
Nữa là mảnh chỉnh vất ngoài bụi tre
Tuy nhiên sau đó
mọi người đều ngạc nhiên thấy Tấm đã mang rất vừa
vặn đôi hài và được nhà vua rước về cung. Mẹ con Cám
ghen tức lắm nên một hôm bèn lập mưu xin vua cho Tấm được
về nhà để giỗ cha. Mẹ ghẻ sai Tấm trèo lên cây cau hái
lấy một buồng để cúng. Tấm vâng lời trèo lên cây thì
mẹ con Cám đứng dưới đất rung gốc làm cho cây lung lay
khiến cho Tấm bị tuột tay rơi xuống bể đầu chết. Dì
ghẻ Tấm liền tâu trình vua rằng Tấm rủi ro té chết nên
xin đem Cám vào cung thế Tấm hầu hạ nhà vua.
Tấm vì chết
oan ức nên được hóa kiếp thành con chim vàng anh, liền bay
vào đậu trong cung. Trông thấy Cám mỗi lần giặt áo cho vua
đều đem phơi ở bờ rào, chim bèn hót:
Giặt áo chồng tao
Có phơi thì phơi bằng sào
Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao.
Vua thấy lạ bèn ra xem và nói với
chim:
Vàng ảnh vàng anh
Có phải vợ anh, chui vào tay áo
Nói xong vua giương
ống tay áo rộng lên thì chim liền bay ngay vào. Vua liền sai
làm một chiếc lồng sơn son thếp vàng thật đẹp để cho
chim ở và nâng niu qúy mến chim vô cùng. Cám thấy vua chỉ
quý chim mà không để ý đến mình sinh ra tức tối nên nhân
một hôm vắng vua, Cám liền bắt chim làm thịt ăn rồi đem
xương ra chôn ở ngoài vườn. Lúc vua về Cám nói dối vua
là chim đã ngã bệnh bất thình lình chết và đem chôn rồi.
Vua thương tiếc chim lắm nên vẫn thường ra chỗ chôn chim
ngồi tưởng nhớ.
Chỗ Cám chôn
xương chim sau đó bỗng mọc lên hai cái cây cao lớn có tàn
bóng mát thật đẹp khiến cho vua lấy làm thích thú bèn sai
quân mắc võng cho mình nằm nghỉ ngay tại đó. Cám lại càng
ghen tức bèn lén vua sai người đốn hai cái cây ấy đi và
lấy gỗ đóng thành cái khung cửi để cho mình dệt vải.
Nhưng cứ mỗi lần Cám ngồi vào khung cửi bắt đầu đạp
máy dệt thì máy khung cửi lại phát lên tiếng kêu:
Kẽo cà kẽo kẹt
Mầy lấy chồng bà, bà móc mắt ra
Cám nghe thấy thế
sợ quá bèn sai người đem chiếc khung cửi ra đốt thành tro
rồi đem tro đổ ở một nơi cách xa kinh thành. Chỗ tro đổ
sau đó bỗng mọc lên một cây thị xanh tốt. Một bà lão
bán hàng nước gần đấy hàng ngày đi ngang qua nhìn lên cây
không thấy trái nhưng lúc nào cũng ngửi thấy có mùi thơm
của thị chín toả ra ngào ngạt. Bà lão cố tìm hoài thì
thấy trên ngọn cao có một quả thị độc nhất đã chín
vàng rất đẹp. Bà lão ao uớc có được quả thị đó đem
về để cho thơm nhà nhưng thị lại cao quá không làm sao hái
được bèn khấn với Trời Phật rằng, nếu phải cơ duyên
thì xin cho thị hãy rụng vào bị bà lão.
Khấn rồi bà
lão mở bị ra thì tự nhiên quả thị rụng ngay vào bị. Bà
lão đem thị về dấu ở trong buồng. Từ hôm ấy trở đi,
mỗi lần bà lão đi chợ búa, lúc trở về thì thấy cơm nước
đã được nấu sẵn, cửa nhà đã được quét dọn sạch
sẽ, hàng quán đã được bày biện tươm tất, bèn lấy làm
lạ mà không biết do đâu. Một hôm bà lão bèn giả vờ đi
chợ như thường lệ, nhưng vừa mới đi ra một chút thì quay
trở lại núp một chỗ rình xem. Chẳng mấy chốc bà lão nhìn
thấy vỏ quả thị nứt ra rồi từ bên trong một cô gái xinh
đẹp bước ra ngoài. Sau khi làm xong mọi chuyện trong nhà,
cũng là độ chừng đã đến lúc bà lão trở về thì cô gái
lại tiến đến chỗ để cái vỏ thị chui vào trong biến
mất. Quả thị lại trở lại nguyên hình dạng cũ.
Sau khi khám phá
ra điều này, bà lão liền quyết định hôm sau cũng giả vờ
đi chợ rồi quay về tìm chỗ núp chờ đợi. Khi quả thị
nứt ra và cô gái đã bước ra ngoài để làm công việc nhà
thì bà lão vội vàng chạy lại ôm chặt cô gái và chụp lấy
cái vỏ thị xé nát. Cô gái bị bà lão bắt gặp quả tang
và cái vỏ thị cũng đã bị xé nát không còn biết ẩn náu
vào đâu nên đành thú thật sự hóa thân của mình và từ
đó giữ nguyên hình ở lại với bà lão, hằng ngày đỡ đần
bà lão trong công việc, và cả hai sống với nhau đầm ấm
như hai mẹ con ruột thịt.
Một hôm nhà vua
giả dạng tuần du ra khỏi kinh thành, ngang qua quán bà lão
liền ghé vào uống nước. Nhà vua cầm lấy miếng trầu lên
ăn thì nhận thấy trầu têm rất giống như trầu Tấm vẫn
từng têm cho vua trước đây liền hỏi bà lão ai têm trầu
mà khéo thế. Bà lão nói là trầu này do con gái bà lão têm.
Nhà vua liền đòi bà lão cho cô gái ra trình. Lúc cô gái bước
ra thì nhận ngay ra đó là nhà vua đồng thời nhà vua cũng
nhận ra cô gái kia chính là Tấm nên vô cùng mừng rỡ, liền
đón Tấm trở lại hoàng cung nối lại cuộc sống hạnh phúc.
Câu truyện tuy
dài nhưng chưa phải kết thúc ngang đây, vì nếu chỉ có thế
thì cũng chẳng có gì khác với những câu truyện luân lý
thông thường khác. Trái lại câu truyện còn được tiếp
nối thêm phần trả thù của Tấm, và đây mới là cái điều
đáng nói về cái lẽ công bằng vay trả theo lối suy luận
bằng cảm tính của người Việt nam.
Truyện kể tiếp
là sau khi Tấm được vua đón về cung, Cám gặp lại Tấm
thấy Tấm càng trắng đẹp hơn xưa mới lấy làm lạ bèn
hỏi nhờ đâu mà Tấm lại trắng đẹp như thế. Tấm rắp
tâm trả thù Cám nên mới bảo nhờ tắm bằng nước sôi.
Cám tưởng thật, lại đang ước ao làm cho mình đẹp như
Tấm để cũng được vua thương yêu bèn sai người nấu cho
mình một nồi nước sôi. Khi Cám nhảy vào nồi nước sôi
để tắm thì liền bị phỏng và chết. Tấm liền đem xác
Cám ướp làm mắm gửi về biếu mẹ ghẻ. Hằng ngày mẹ
ghẻ của Tấm lấy mắm ra ăn đều tấm tắc khen ngon thì
có con quạ bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:
Ngon gì mà ngon
Ăn thịt con, có còn cho miếng
Mẹ Cám nghe thấy
thế lấy làm tức giận lắm nhưng không làm sao đuổi được
quạ đi. Ðiều ấy cứ xảy ra mãi cho đến hôm mẹ Cám ăn
gần hết hũ mắm thì chợt thấy dưới đáy hủ là cái đầu
lâu của con mình mới vỡ lẽ ra, vừa thương xót con, vừa
uất ức mà chết luôn.
Nhìn chung thì
nội dung câu truyện vẫn đề cao cái quan niệm "Ở hiền gặp
lành, ở ác gặp dữ." Tấm là người hiền lành cho nên dù
có trải qua bao hoạn nạn đi nữa thì cuối cùng vẫn được
hạnh phúc. Mẹ con Cám độc ác nên kết cuộc đã phải chết
để đền tội. Trong câu truyện lại chứa đựng những tình
tiết dựa trên những tin tưởng tôn giáo khác nhau như luân
hồi của Phật giáo hay phép tiên của Lão giáo. Chính vì thế
mà tùy theo khuynh hướng tôn giáo của người kể mà có thể
nói đến Trời, Phật, Tiên hay Thánh đều được cả và đều
mang ý nghĩa như nhau. Riêng phần kết thúc thì phải đầy
đủ " ơn đền oán trả ", nói lên cái tinh thần Ðạo lý
dân gian được xây dựng trên sự suy luận về công bình theo
cảm tính của người Việt nam.
3.- CÁI VÒNG LUẨN QUẨN CỦA SỰ VAY TRẢ
Nếu đứng trên
bình diện tâm lý mà nói thì hành động Tấm giết Cám chỉ
là một sự thực hiện cái ý muốn lập lại cái công bằng
vay trả, và điều này rất phù hợp với cái tâm lý chung
của người bình dân Việt nam. Tuy nhiên nếu đứng trên bình
diện đạo đức học siêu hình mà xét thì hành động này
của Tấm cũng chỉ là một việc ác không hơn không kém và
chẳng qua chỉ nhằm vào mục đích trả thù. Ðây chính là
cái điểm cho thấy cái tinh thần nghịch lý của con người
Việt nam: mặc dù yêu điều thiện, nhưng lại dễ bị khích
động bởi tình cảm, cho nên khi gặp cảnh bất công, con người
có thể phản ứng lại bằng những hành động ác vẫn không
sợ bị kẻ khác lên án vì cho rằng đó chỉ là sự thực
hiện lẽ công bằng.
Trong nếp sống
yên lành và thuận thảo thì những điều như "Kính trên, nhường
dưới" là những biểu hiện tốt của con người. Tuy nhiên
khi mà xích mích xảy ra khiến cho "cơm không lành, canh không
ngọt" thì con người cũng dễ buông thả theo những xúc động
tâm lý cho nên hễ mà "Chú đánh cha tôi, tôi tha gì chú". Với
bản chất hiền hòa, người dân Việt nam đã chấp nhận tất
cả những tin tưởng cao đẹp của các học thuyết về đạo
đức, và cũng có những lúc sống theo tinh thần "Từ bi hỉ
xả", của Phật giáo, "Dĩ ân báo oán" của Lão giáo, hay "Dĩ
trực báo oán" của Khổng giáo. Tuy nhiên, do những bức thiết
trong cuộc sống khiến cho "cái khó nó bó cái khôn" thì con
người cũng có thể vì sự sống của mình mà quên đi đức
hiền lành nhịn nhục để chỉ còn nhớ cái luật công bằng
vay trả, cho nên mới có chuyện "Hòn đất ném đi, hòn chì
ném lại."
Do mặc cảm thấp
kém về thân phận cùng với cái tâm lý bị những ẩn ức
đè nén giống như "con giun xéo mãi cũng quằn" mà khi có cơ
hội phản kháng lại điều bất công thì người Việt nam
cũng rất tàn nhẫn và phạm vào những bất công không kém.
Trong câu truyện Tấm Cám, Tấm đã phải trải qua không biết
bao là bất công và đau khổ nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng,
tuy vậy Tấm vẫn không quên nỗi oán hờn đối với kẻ đã
nhẫn tâm giết mình, dù đã qua mấy lần hoá kiếp. Cuối
cùng khi đã được trở về kiếp người lại có cơ hội
và phương tiện, Tấm mới không thể nào tha thứ cho kẻ đã
gây cho mình đau khổ. Và đây cũng là cái điểm khiến cho
con người cứ bị ràng buộc mãi vào cái vòng ơn oán đời
này qua đời khác.
Chính vì cái lòng
yêu mến lẽ phải và mong muốn thấy sự công bằng được
thể hiện mà con người đã vượt qua cái giá trị tự tại
của những hành vi thiện và ác, do đó mà xấu và tốt có
khi không còn mang ý nghĩa khách quan, nhưng đã bị cái tâm
lý tình cảm chủ quan chi phối khiến cho điều ác ban đầu
bị coi là xấu, thì điều ác trả lại thường bị lãng quên
cái bản chất xấu đi để được coi như sự công bằng cần
thiết, như trong trường hợp Tấm và Cám. Ngoài ra, ơn oán
lại chỉ là những hiện tượng mang tính cách hoàn toàn chủ
quan của những người cùng liên hệ, và thường do nơi tình
cảm "yêu nên tốt, ghét nên xấu" cho nên dễ đưa đến những
sai lầm trong nhận định chân lý. Cũng vì tính chủ quan trong
nhận định mà có khi cùng một hành động được người
này coi là do thiện chí thì đối với người kia lại bị
xem như là do ác ý, do đó mà nảy sinh thêm cái hiện tượng
" làm ơn mắc oán ", khiến cho cái đạo lý đặt trên căn
bản tình người nhiều khi cũng rất phức tạp.
Cái mặc cảm
"ơn đền oán trả" này không phải chỉ tiềm tàng trong tâm
tư người bình dân mà ngay cả bậc sĩ phu cũng không tránh
khỏi. Thi hào Nguyễn Du khi viết Ðoạn Trường Tân Thanh cũng
đã để cho cái tư tưởng này bộc lộ trong tác phẩm của
mình. Kiều sau khi được Từ Hải chuộc ra khỏi chốn lầu
xanh thì cũng đã dựa vào thanh thế của Từ Hải để trả
thù những kẻ đã làm hại mình, và đền ơn cho những người
đã có lòng tốt với mình trong cơn hoạn nạn. Có thể cho
rằng đây chỉ là sự mô tả cái tâm lý thường tình của
đàn bà, vì Thúy kiều cũng chỉ là một người đàn bà thường
tình như tất cả mọi người, nhưng xét cho cùng thì điều
này vẫn mang cái đặc tính của đạo đức ơn đền oán trả
nêu trên.
Do bản chất mang
nặng tình người cùng với kinh nghiệm làm dân bị trị "thấp
cổ bé miệng, kêu Trời không thấu", bị người Trung hoa áp
bức bóc lột mà vẫn cứ phải nhịn nhục, khiến người
Việt nam dễ cảm thông với những người nghèo khổ, hay có
khuynh hướng đứng về phía kẻ yếu kém thế cô, và dễ
tôn sùng những hành vi có tính chất anh hùng hảo hán. Tuy
nhiên cũng do cách hiểu sai lệch cái đạo lý dựa trên nguyên
tắc công bình vay trả này mà người Việt nam cũng có quan
niệm như ăn cắp, bòn rút hay phá hoại của nhà giàu, của
kẻ cai trị, của chủ nhân, nhất là của tư bản ngoại quốc,
nhiều khi không phải là điều xấu mà chỉ là đòi lại lẽ
công bằng, nếu những người này bị coi là đã hành động
bất công. Người làm chủ thì lại hay nghĩ rằng mình mang
lại nguồn sống cho người làm công mà người làm công lại
không biết tròn bổn phận phải đền đáp cho tương xứng
cái công ơn đó.
Cái lối suy nghĩ
này đã làm cho con người dễ bao biện cho cái đầu óc thủ
lợi riêng tư của mỗi người, gây phương hại đến sự
hợp tác trên quy mô rộng lớn và lâu dài, đưa đến những
hiện tượng tiêu cực khiến cho nền kinh tế không những
không phát triển mà còn hay lâm vào nạn phá sản.
Về mặt chính
trị và xã hội, có thể nói là cái tinh thần đạo lý này
cũng đã có phần tác động trong việc phá vỡ cuộc Cách
mạng của toàn dân vào năm 1945, vì trong khi muốn thiết lập
một xã hội công bình chân chính, người Việt nam vẫn mang
trong đầu cái quan niệm ơn oán theo cảm tình cho nên đã phạm
vào không biết bao sai lầm đưa đến chỗ bế tắc.
Vào lúc bắt đầu
cuộc Cách mạng rồi sau đó bị biến thành cuộc đấu tranh
Quốc Cộng, người cộng sản đã dễ dàng tranh thủ được
sự ủng hộ của người dân vì họ đã biết khai thác cái
khía cạnh tâm lý tình người và khôn khéo ngụy trang thành
vai trò nghĩa hiệp, đồng thời khơi động cái tính căm thù
tiềm ẩn trong lòng mỗi người, nhờ đó mà họ đã có thể
vận động được quần chúng, đặc biệt là các thành phần
nông dân và lao động tham gia vào cuộc đấu tranh giai cấp
để tiêu diệt những kẻ đối lập hay không nghe theo họ,
vì người cộng sản đã chụp cho những kẻ này cái mũ tội
ác và gán cho họ những món nợ máu tày trời không thể nào
tha thứ.
Chính vì tính
thù ghét sự áp bức tiềm tàng trong lòng mỗi người đã
bị các nhà lãnh đạo mị dân lợi dụng một cách tinh vi
để biến đổi không biết bao nhiêu người dân vốn hiền
lành chất phác trở thành những kẻ chỉ biết chạy đuổi
theo cái công bình của một lý thuyết không tưởng để rồi
căm thù tất cả những người theo chân lý khác vì tin đó
là những người ác. Do đó mà họ đã có thể tay cầm dao
giết người hay đối xử độc ác và man rợ đối với đồng
bào ruột thịt, nhưng miệng thì vẫn có thể thản nhiên nói
đến tình người chứ không hề cảm thấy xấu hổ hay lương
tâm ray rứt, vì họ vẫn tin là họ đã hành động đúng đạo
lý.
Người Quốc gia
sở dĩ gặp khó khăn cũng chỉ vì họ thường là những người
xuất thân từ thành phần trung lưu, mang cái vỏ tiểu tư sản,
chịu ảnh hưởng của những tư tưởng mới Tây phương, thường
suy luận theo lý trí, khiến cho họ có vẻ như xa rời với
quần chúng. Vả lại, những tư tưởng tiến bộ mà họ muốn
đem ra áp dụng đôi khi lại quá trừu tượng, thường không
phù hợp với những ước mơ tình cảm thiển cận và thực
tế của người bình dân. Hơn nữa, những tư tưởng này có
khi lại giống như liều "thuốc đắng đã tật " và khi muốn
thuyết phục người dân nghe theo mà không muốn mị dân thì
lại bị "lời thật mất lòng", khiến cho họ dễ bị đối
phương lợi dụng những sơ hở để tuyên truyền xuyên tạc,
biến họ thành như những người xấu, có ác ý, nên không
được dân ủng hộ, do đó mà đành phải thất bại.
Còn quần chúng
một khi tỉnh ngộ về sự lừa dối của cộng sản thì hoặc
là nhiệt tình cách mạng cũng đã nguôi ngoai nên chỉ còn
mong muốn được sống an thân, hoặc là lại mang quá nhiều
mặc cảm ơn oán trong đời để rồi cũng chỉ hành xử trong
cái vòng luẩn quẩn của sự vay trả những điều ân oán
cá nhân hơn là tự mình thay đổi cách tư duy để có thể
góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Vào kỷ nguyên
mà khắp nơi trên thế giới, mức sống vật chất của con
người không ngừng được nâng cao, giá trị con người và
những nguyên tắc tự do nhân quyền được tôn trọng, thì
tại Việt nam tự do của con người vẫn bị chà đạp, kinh
tế vẫn bấp bênh, và đời sống người dân nghèo vẫn đầy
dẫy bất công. Do đó, muốn làm cuộc cách mạng xây dựng
lại một xã hội tự do dân chủ tốt đẹp và lành mạnh
thật sự cho quốc gia, người Việt nam cần phải có một
sự đổi mới cách tư duy trong mọi lãnh vực, ngay cả trong
tư duy về quan niệm đạo đức, tạo cho mình một quan niệm
đúng và hài hoà giữa lý trí và tình cảm, vừa để không
đánh mất đi cái truyền thống dân tộc, nhưng cũng không
để cho mình vướng mắc mãi vào cái mặc cảm "ơn đền oán
trả" nặng tính chất tình cảm, để rồi cứ tự hào với
những hành động công bằng ích kỷ nhỏ nhen mà phá hỏng
cái lẽ công bằng chân chính của đại cuộc.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment