THÀNH PHỐ BIỂN ÊM ÐỀM
Vừa nghỉ hè
sau năm học đầu tiên ở Phù cát thì tôi nghe mẹ nói cha
tôi nhận được lệnh đổi vào phủ Tuy an ở Phú yên. Nhiều
người đến mừng cha tôi đã thăng quan tiến chức nhanh chóng.
Tôi không thích Phù cát nhưng nghe cha tôi bảo Tuy an thì cũng
giống như Phù cát vậy thôi nên cũng không ham thích dời đổi.
Hình như tôi đã bắt đầu tìm thấy nơi đây một vài cảnh
quen thuộc với tôi rồi.
Hàng cây trứng cá trồng lúc tôi
mới đến đã cao nhanh hơn tôi rất nhiều và bây giờ đang
cho trái. Giàn hoa thiên lý mẹ tôi trồng sau dãy nhà ngang đã
ra hoa khá nhiều.Tôi đã được ăn món canh mẹ tôi nấu hoa
thiên lý với thịt nạc. Và vào những buổi chiều, tôi cũng
đã có thể bắc ghế ngồi dưới giàn hoa, ngửi hương thơm
và chờ ngắm những chuyến tàu chạy qua.
Cha tôi vừa làm
lễ bàn giao xong thì em tôi bị bệnh nặng phải đưa về nhà
thương Quy nhơn điều trị nên chỉ có mình cha tôi đi trước
vào nhiệm sở còn tôi ở lại Quy nhơn với mẹ. Sau một thời
gian sống ở huyện lỵ, thiếu những tiện nghi thành phố,
nay trở lại được sống ở chỗ có đèn điện, thấy phố
xá đông người, cảnh trí lại có núi có biển, tôi vui thích
lắm. Thích hơn nữa là ở đây cũng có cà rem, món ăn tuyệt
vời đối với tôi tuổi ấy, do đó mà tôi cũng không còn
tha thiết với hàng cây trứng cá cùng giàn hoa thiên lý nữa.
Còn con tàu thì ở đâu mà chẳng có.
Bỗng một hôm
tôi thấy những đoàn người cầm cờ đỏ sao vàng đi các
phố hô to nhiều khẩu hiệu có những tiếng như là "Việt
Minh, Ðồng Minh, Cách Mạng, Tự Do, Ðộc Lập, Thực Dân Phát
Xít, Phong Kiến, Ðả Ðảo, Muôn năm v.v..." toàn là những
tiếng mà tôi chẳng hiểu ra làm sao cả. Rồi có những người
đội ca lô, đeo dao găm hay vác gậy gộc, một vài người
còn có cả súng dài xưng là Giải phóng quân chia nhau canh gác
khắp nơi, còn mấy người lính Nhật trước đây vẫn là
mối lo sợ của tôi nay bỗng nhiên vắng bặt. Tôi có hỏi
mẹ nhưng mẹ tôi cũng không thể nào cắt nghĩa cho tôi hiểu
thêm được tí nào. Thôi thì đành đợi cha tôi vậy.
Và cha tôi cũng
đã trở về, cho tôi biết không phải đi Phú yên nữa. Nước
nhà đã độc lập, Cách mạng nắm chính quyền, quan quyền
đã cáo chung, toàn là những chuyện khó hiểu. Mới hôm nào
tuyên bố độc lập, bây giờ lại cũng tuyên bố độc lập.
Nhưng bây giờ thì có các ông Việt minh xuất hiện, đeo băng
tay đỏ với ngôi sao vàng và nói năng có vẻ hùng dũng lắm.
Dân chúng thì biểu tình mít tinh, hoan hô đả đảo rầm rộ,
tay nắm đấm vung lên trời mạnh bạo chứ không nghiêm chỉnh
khép nép như trước đây.
Tôi nghe người
ta nói Việt minh giết người nhiều lắm. Tôi không thấy,
nhưng tôi không thích màu cờ đỏ, nhất là không thích nghe
người ta hát : "...tuốt gươm vùng lên, đã đến ngày trả
mối thù chung..." Mà có lẽ Việt minh giết người thật vì
người ta còn hát: "cờ pha máu chiến thắng..." với lại "thề
phân thây uống máu quân thù ..." tôi nghe mà cảm thấy rùng
mình. Tôi thấy mẹ tôi xếp cất mớ áo dài khăn đóng của
cha tôi vào ngăn quần áo không dùng tới. Tôi cũng không thích
gì cái màu đen ảm đạm này. Tôi chỉ thích màu xanh da trời,
màu xanh của cây lá và màu xanh của một giòng sông. Trong gia
đình tôi mọi người vẫn bình thường. Cha tôi đưa gia đình
dọn đến một căn nhà ở một khu phố yên tịnh, có cổng,
có rào tường, có lối đi vào rải sỏi với giàn bông trước
ngõ. Trên cánh cửa chính trước nhà còn đính tấm danh thiếp:
"Án Sát..." vì ngôi nhà nguyên là tư thất của vị quan Án
trước đây. Nhà có phòng khách, phòng ăn, buồng ngủ và phòng
tắm, mở vòi là có nước chảy. Phía sau là nhà bếp, nhà
kho và có cả nhà để xe. Tại giếng bên hông bếp có một
cái bơm nước bằng tay dùng bơm nước lên hồ chứa trên
mái nhà. Buổi tối chỉ cần vặn nút một cái là có đèn
điện sáng. Mẹ tôi lo sắp đặt mọi thứ cho ngăn nắp.
Tôi lại được
sống ở thành phố, có những tiện nghi dễ chịu và nhất
là không bị gò bó trong những khuôn phép rắc rối như lúc
sống ở huyện lỵ. Tôi được đi dạo phố, được đi tắm
biển, được uống nước dừa tươi nơi hàng giải khát, được
ra thăm bến cảng, nhìn xác chiếc tàu dầu của Nhật bị
Ðồng minh đánh đắm còn nằm chìm nửa phần trong vịnh.
Cha tôi bảo Nhật thua trận rồi, không còn đánh nhau nữa.
Ðiều mơ ước của tôi đến thật bất ngờ. Tôi vui thích
với ngôi nhà, với thành phố biển xinh đẹp và mới lạ
này. Chỉ hơi thiếu một giòng sông, nhưng bù lại đã có
biển. Và tôi đang chờ đợi mẹ tôi trồng lại một giàn
hoa thiên lý khác.
Nhưng cũng chính
từ ngôi nhà này tôi lại chợt nhận ra cứ mỗi sáng và tối
thường có tiếng kèn đồng thổi một điệu nhạc ngắn vào
những giờ nhất định phát ra từ khu phố kế cận. Khu phố
giới hạn bằng bốn mặt đường đó được bao bọc kín
mít bằng một vòng tường rào cao, trên bờ tường lởm chởm
mảnh chai. Tại bốn góc có chòi canh và luôn luôn có người
cầm súng gác. Tôi hỏi anh Ðài thì anh ta bảo tôi đó là
nhà lao, tức là nơi dùng để nhốt những người phạm tội.
Nhưng vì sao họ lại phạm tội để bị nhốt thì anh Ðài
không trả lời. Tôi không thấy được những người bị nhốt
sau bức vòng tường, nhưng tiếng kèn đồng vẫn nhắc nhở
cho tôi biết có người đang bị giam giữ trong đó và tôi
cảm thấy như có một chút buồn xâm chiếm mỗi khi nghe thấy
tiếng kèn.
Cũng từ lúc dọn
về căn nhà này thì anh Ðài hay vắng nhà. Căn nhà xe không
có xe để cất nên anh ta chiếm làm giang sơn riêng của mình.
Có một lần thấy anh có nhà, tôi bước vào chơi thì thấy
anh ta cũng có đeo băng tay đỏ với ngôi sao vàng, lưng mang
dao găm và một đoạn dây thừng quấn gọn ở bên hông. Tôi
hỏi anh ta đeo dây thừng làm gì thì anh bảo để dùng trói
Việt gian. Tôi cũng chẳng hiểu Việt gian là gì và Việt gian
ở đâu để cho anh ta trói, nhưng cái chuyện trói người hay
bị người khác trói đều là những điều tôi không thích
tí nào.
Qua bữa đó tôi
không thấy anh Ðài về nhà cho đến một hôm tôi bỗng thấy
anh ta xuất hiện trong bộ đồng phục Vệ quốc đoàn màu
mần quân, đầu đội ca lô có ngôi sao vàng. Anh nhìn tôi với
vẻ hãnh diện và tôi cũng nhìn anh ta với tất cả niềm khâm
phục. Anh cho cha mẹ tôi biết là anh sắp sửa lên đường
vào Nam bộ chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Tôi không
biết xứ Nam bộ xa xôi đến mức nào nhưng sự ra đi của
anh Ðài quả thật là một hành động hào hùng. Anh từ giã
cha mẹ tôi, xoa đầu tôi hẹn gặp lại, và cũng từ đó tôi
không bao giờ còn thấy anh trở lại.
Niên học này
tôi được đi học ở trường các sư huynh dòng La san. Trường
to lớn khang trang, lớp học rộng rãi và bốn mặt tường
đều có bảng lớn. Các sư huynh đều vui vẻ và rất thương
yêu học trò chứ không phải lúc nào cũng nghiêm nghị như
mấy ông giáo ở trường huyện. Tôi có bạn và chúng tôi
có những câu chuyện để trao đổi, nhất là những câu chuyện
như Ðồng minh tước khí giới Nhật, hoặc chuyện Nam bộ
kháng chiến, những mẩu chuyện mà chúng tôi nghe lóm được
của người lớn nhưng thực ra chúng tôi chẳng hiểu gì cả.
Và ở trường chúng tôi được các sư huynh tập cho hát những
bài ca yêu nước. Chúng tôi chiêm ngưỡng hình ảnh anh Vệ
quốc quân và bắt chước các toán dân quân du kích chơi trò
bắn súng, đánh trận giả. Chúng tôi đang tưởng tượng trò
chiến tranh trong cái cảm giác của một cuộc sống thật thanh
bình.
Ðối với chúng
tôi, những chuyện đánh nhau, bắn giết ngoài chiến trường
mà người lớn vẫn nói chuyện với nhau cũng chỉ giống như
những chuyện tưởng tượng vui chơi trẻ thơ của chúng tôi
thôi. Cuộc đời vẫn vui và thành phố vẫn hiền hòa, tôi
không hề hiểu biết tí gì về những diễn biến phức tạp
của tình hình cho đến một hôm tôi nghe cha tôi nói tất cả
dân thành phố sẽ phải tản cư vì có lệnh. Người ta loan
tin với nhau, nào làTây đã đánh ra Nha trang, nào là Tây sắp
sửa đổ bộ lên Quy nhơn. Ngoài đường phố thấy kẽ nhan
nhản khẩu hiệu: "Thà chết chứ không chịu làm nô lệ".
Tôi không hiểu thế nào là nô lệ, nhưng nô lệ chắc là
khổ lắm nên tôi cũng không muốn làm nô lệ. Còn cái chuyện
thà chết thì tôi rất phân vân, vì chết thì cũng chẳng còn
gì nữa.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment