Ký sự Tùy bút
RỒI CŨNG ÐẾN NGÀY GIÃ TỪ
Trong họ đạo
tôi ở, các chú bác mới được thả về cũng như một số
người thuộc diện bị công an tình nghi cứ vắng dần đâu
mất. Thì ra lợi dụng lúc giao thời, sự kiểm soát việc
đi lại có phần lỏng lẻo, do đó những người này muốn
được an toàn nên đều lo trốn trước về vùng quốc gia.
Tôi còn đang nghĩ phương cách đi khỏi nơi đây thì một buổi
chiều bác Ba, người lâu nay vẫn thường tỏ ra như không
hề lo lắng một chuyện gì, đến tìm tôi và bảo tôi hãy
lo chuẩn bị ngay để khuya nay bác gửi cho đi theo mấy người
sắp vượt tuyến về Ðà nẵng.
Tối hôm đó tôi
âm thầm gói ghém một bộ đồ, lựa ra vài giấy tờ hộ
tịch và quyển sổ nhỏ của cha tôi ghi chép lúc trong tù để
đem theo. Tôi gom bộ đồ nghề hớt tóc và hai cái hộp nhỏ
bằng bạc chạm, kỷ vật của mẹ tôi, bỏ tất cả vào cái
tráp bằng gỗ gụ của cha tôi, tìm đến giao cho em tôi và
bảo hãy cố giữ lại làm kỷ niệm, xong trở về chỗ ở
nằm đợi.
Gà vừa gáy sáng
thì anh Hai, con của bác Ba, đến ra hiệu cho tôi đi theo. Anh
Hai đưa tôi vào ga Tam quan mua cho tôi một cái vé xe đi Quảng
ngãi, dẫn tôi tìm gặp mấy người sẽ cùng đi chung để
giới thiệu cho tôi biết rồi lặng lẽ quay về. Tôi muốn
nói với anh Hai một vài lời nào đó nhưng anh đã lẩn vào
đám đông khuất dạng.
Lúc chuyến ô
tô ray từ Bồng sơn ra vừa dừng lại, tôi tình cờ gặp họa
sĩ Sung bước xuống xe. Ông ta vui vẻ vỗ vai tôi để tạm
biệt vì ông ta cho biết sẽ theo tập kết trở về Hà nội
nên muốn thăm lại bà con họ Gò xoài trước khi lên đường.
Tôi không nhớ tôi có nói "tạm biệt" với ông ta không, vì
tôi đang vội vã theo mấy anh bạn đồng hành leo lên xe cho
kịp vì xe đã bắt đầu chuyển bánh.
Vì đã có lệnh
đình chiến nên xe di chuyển tự nhiên ban ngày, không còn sợ
máy bay đánh phá. Trời bỗng nhiên chuyển mưa bay. Tôi ngồi
thu mình trong toa xe nhỏ hẹp của chuyến xe chật cứng người.
Khi xe chạy tới cầu Chương hòa thì vì mưa làm ướt trơn
đường sắt, chiếc xe cứ trợt bánh không leo nổi con dốc.
Từ khi chiếc cầu bê tông bị thả bom sập, ngành hỏa xa
đã phải cho xẻ nền đường cao cho lài lài gần với tầm
mực nước sông rồi dùng tà vẹt kê làm chân cầu, thả lên
mấy lớp đường ray làm đà rồi bắt đường ray cho xe chạy
nên xe lửa không còn lưu thông được mà chỉ có loại toa
xe nhỏ và nhẹ có gắn thêm máy nổ xe hơi chạy bằng khí
than mà người ta đặt tên cho là ô tô ray mới có thể đi
qua mà thôi.
Mấy nhân viên
hỏa xa xuống xe vốc cát rải lên mặt đường sắt cho bớt
trơn trợt. Một số hành khách cũng xuống tiếp tay. Thừa
dịp này, tôi cũng hướng mình qua khung cửa xe để nhìn kỹ
lại con sông nhỏ lần cuối, nơi đây, dưới những đà bê
tông của cây cầu đổ nát, tôi cũng đã nhiều lần theo các
bạn nhỏ trong xóm ra chơi, tắm lội hoặc câu cá, những con
cá măng, cá ngạnh thịt ngọt thơm lành. Tôi lại đưa mắt
nhìn về xóm làng phía tây, nơi mà những ngày qua tôi đã
sống với những mơ ước thật tầm thường...
Tôi chợt nghĩ
đến người em gái vẫn còn ở đó. Tôi lại nhận ra thêm
một điều là từ ngày vào ở đất Bình định này anh em
tôi ít có dịp sống gần nhau và ít có khi cùng nhau chuyện
trò trao đổi. Tôi không biết em tôi có bao giờ mang những
mơ ước gì trên vùng đất này không, nhưng có một điều
chắc chắn là em tôi cũng như tôi đã phải chịu quá nhiều
mất mát và có rất nhiều kỷ niệm buồn trên vùng đất
Bình Ðịnh này. Tuy nhiên tôi biết rồi đây em tôi cũng không
phải ở đó mãi mãi.
Sau khi rải cát
xong, mọi người lên xe trở lại. Qua vài cái rùng mình rồi
chiếc xe cũng lăn bánh và chậm chạp bò lên dốc. Lúc xe chạy
tới đèo Bình đê, ranh giới phía bắc của tỉnh Bình định,
tôi cố nhoài người nhìn lại phía sau một lần nữa. Xa xa
về phía nam, khuất trong mưa mờ, là vùng đồi đá ong Thiết
đính, nơi đó mẹ tôi đã nằm lại vĩnh viễn với một nỗi
nhớ nhung về quê hương xa cách nghìn trùng. Xa hơn nữa, cách
trở hai ngọn đèo Phủ cũ và ngọn đèo Nhông, trên ngọn
đồi cát hoang vu trơ trọi, cha tôi cùng hai người bạn cùng
chí hướng cũng đã nằm yên ở đó với vết thương trên
ngực không bao giờ lành chỉ vì mang trong lòng mối hoài bão
xây dựng một quê hương thanh bình an vui trên một vùng đất
vẫn còn mang nhiều vết tích hờn oan của một vương quốc
đã bị diệt vong.
Tàu sắp chui vào
đường hầm. Sực nhớ lại cũng chính tại cửa hầm này,
chú Mùi đã ngã gục trên đường đi về Gò xoài tìm chút
tình ấm cho những ngày lạc lõng tha hương, tôi nhắm mắt
lại, khẽ thì thầm hai tiếng "Giã từ." Tôi giã từ chú Mùi,
nhưng chính thực ra là tôi cũng đang giã từ Bình định.
Tôi đã sống
mười năm ở đất Bình định này vừa đúng trọn chu kỳ
của một cuộc chiến tranh chưa hẳn là chấm dứt. Bây giờ
mới lấp ló một tí thanh bình trở về thì tôi lại đang
giã từ vùng đất đã nuôi dưỡng tôi từ thơ ấu đến hôm
nay. Mười năm qua mảnh đất này đã chứng kiến bao nhiêu
là mất mát và đau khổ của riêng tôi, nhưng đồng thời
cũng đã mang lại cho tôi nhiều kỷ niệm. Nhưng bây giờ thì
tôi đang bỏ đi xa. Tôi không biết rồi đây tôi có bao giờ
sẽ trở lại vùng đất này nữa hay không. Nhớ lại các nơi
tôi đã một lần sống qua, tôi chưa bao giờ trở lại. Tôi
không suy nghĩ gì thêm nữa. Khi tôi mở mắt ra lại thì tàu
đã qua khỏi đường hầm và một khung trời mới có ánh nắng
đang mở ra trước mặt.
Lẽ ra qua mười
năm từng đến nhiều địa phương và sống ở nhiều vùng
khác nhau của tỉnh Bình định, tôi phải thấy được nhiều
cái hay cái đẹp của xứ sở này, nhưng trong ký ức của
tôi lại chỉ toàn là hình ảnh Bình định của một thời
loạn lạc và lòng người thì ly tán, một Bình định đang
trên con đường hủy hoại trong một giai đoạn quay cuồng
của một cuộc chiến tranh trường kỳ và tàn bạo. Niềm
vui quá ít mà nỗi buồn thì quá nhiều đã khiến cho nỗi
buồn chi phối hầu hết mọi điều tôi nhìn thấy.
Trong số những
người Bình định mà tôi đã gặp, có những người thương
cha tôi và anh em tôi nhưng cũng có người tin rằng cha tôi
là Việt gian phản động. Tôi cho rằng thực ra người Bình
định cũng hiền hòa và biết yêu thương con người như tất
cả mọi người lành trên thế gian này . Nếu trong thời gian
qua họ có xâu xé nhau thì chẳng qua chỉ tại họ đang bị
đám ma Hời ám ảnh vào một cơn mê để đày đọa nhau mà
thôi. Tôi nghĩ lại bài học lịch sử ngay trên quê hương
này để thấy lòng mình được thanh thản. Trải qua hơn 150
năm dưới triều nhà Nguyễn, triều Tây sơn đã bị lên án
là ngụy triều. Bây giờ thì người ta lại hạch tội triều
Nguyễn và ca tụng vua Quang Trung như một vị anh hùng làm vẻ
vang cho dân tộc.
Thời chúa Nguyễn
vào đây lánh nạn họ Trịnh, khởi màn cho một cuộc Nam tiến
xâm lấn vùng đất này và xua đuổi người Chiêm thành đi,
thì từ đó người dân Việt từ những miền ngoài rủ nhau
vào đây lập nghiệp đã biến mảnh đất này thành quê hương
của mình. Họ đã đặt những cái tên thật đẹp để gọi
nó và qua bao đời đã đổ mồ hôi nước mắt và có khi cả
máu nữa để gìn giữ và tô điểm thêm cho những cái tên
đẹp đẽ ấy.
Thời gian qua cũng
đã có thêm nhiều người từ những miền xa lạ đổ về
đây để tìm một chốn nương thân trong những ngày loạn
lạc và họ cũng đã đóng góp sức mình để xây dựng mảnh
đất này. Họ cũng muốn thấy mảnh đất này thanh bình và
no ấm nhưng mảnh đất này cũng lại bị đem ra hủy hoại,
không phải chỉ bằng bàn tay của giặc ngoài mà chính bằng
bàn tay của một số người Việt nam tự cho mình là người
yêu nước và có độc quyền yêu nước. Tôi tưởng tượng
không biết có phải đây cũng là chút ân oán của tổ tiên
xưa đã gây ra đối với người Chiêm thành hay không, nhưng
tôi mong mỏi mảnh đất này sẽ được yên vui trở lại.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment