Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Tuesday, February 5, 2013

TÌM MỘT QUÊ HƯƠNG [23]

Ký sự Tùy bút

BÊN GIÒNG SÔNG CÔN

Xin hồi cư không được, chưa biết phải làm gì thì vị linh mục dạy tôi trước đây vẫn chưa quên tình cũ với cha tôi nên một lần nữa lại đem tôi về ở với ngài. Lúc này ngài đã dọn về Trường cửu, cách xứ Kim châu và thành Bình định khoảng 4 cây số và cũng gần quốc lộ 19 dẫn về miền Tây nguyên hầu như bỏ hoang.

Nhà thờ bị máy bay Pháp thả bom lầm sập từ lâu mà Nhà Chung thì không tiền nên chỉ có thể cất lại một căn nhà nhỏ bên cạnh nền nhà thờ cũ, một nửa phía trước dùng làm nơi thờ phượng, một nửa sau để cho cha sở ở. Lần này ngài không còn dạy tôi học mà chỉ sai tôi phụ giúp ngài trong công việc. 
 
Vào thời này, Hội Thánh chưa cho phép dùng ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc mà bắt buộc phải dùng tiếng La tinh trong các nghi thức tế lễ, do đó mỗi khi cử hành thánh lễ, vị linh mục đọc kinh thì chỉ có một mình vị linh mục hiểu. Con chiên có không hiểu cũng không sao vì con chiên chỉ cần kính cẩn nghe vị linh mục đọc là đủ rồi. Ðể có thể giúp lễ, ngài cũng đã bắt tôi học mấy kinh La tinh theo kiểu đọc thuộc lòng mà không cần hiểu nghĩa. Nhưng cũng vì không hiểu nghĩa mà tinh thần thì đang khủng hoảng nên tôi luôn luôn đối đáp lộn xộn khiến cho ngài cũng không bao giờ dám để cho tôi được cái vinh dự giúp lễ cho ngài.
 
Ðất Trường cửu cũng là vùng đồng ruộng nhưng có giòng sông Côn chảy qua ngay phía sau nhà thờ, phía bờ bên kia lại có nhiều lũy tre xanh chạy dài ven sông nên cảnh trí cũng mang được chút vẻ thơ mộng đối với tôi. Cò trắng tụ tập hàng đàn trên các bụi tre tạo nên một hình ảnh thật êm đềm vào những buổi chiều. Tôi thường ngồi bên bờ sông, nhìn đàn cò trắng bay lượn trên các lùm tre và thả hồn phiêu du. Xa xa mấy cái tháp Chàm đứng chơ vơ trên các ngọn đồi trọc như còn tiếc nhớ một thời oanh liệt. Tôi nhớ lại cái tháp Chàm tôi thấy lần đầu tiên khi ở huyện Phù cát và cảm nghĩ của tôi lúc ấy, tôi thấy mình quả thật đã linh cảm đúng vì từ ấy đến nay tôi thực tình đã mất mát quá nhiều.
 
Cũng tại khúc sông Côn này, tôi cũng đã có dịp nhìn thấy người ta đánh cá chép. Hình như chỉ có một lần trong năm, vào mùa cá tìm nguồn, người ta giăng đáy chận ngang sông và trên đáy là một cái lưới giăng chùng như cái võng. Vài chiếc ghe từ phía hạ lưu chèo ngược trở lại chỗ đóng đăng giăng lưới, vừa chèo vừa gõ vào mạn ghe thật ồn ào để cho cá trong sông nghe động sẽ lội ngược về nguồn, lúc đụng phải đăng cá liền phóng mình lên mặt nước để vượt qua thì rơi ngay vào lưới và bị bắt. Xem người ta đánh cá tôi lại chợt nhớ đến điển tích Cá chép vượt Vũ môn hóa Rồng, nhưng cá chép ở đây chỉ có rơi vào lưới cho người đem về ăn thịt mà thôi. Tôi lại nghĩ đến mình và thấy hình như tôi cũng đã nhảy vào một cái lưới vô hình nào đó của giòng đời đảo điên.
 
Nhưng rồi cuộc sống chôn chân ở chốn thôn quê hẻo lánh này cũng không yên lành được lâu. Qua nhiều đợt "phóng tay phát động quần chúng" chính quyền cộng sản đã nắm trọn quần chúng trong tay, liền chuẩn bị cho phong trào cải cách ruộng đất. Tại vài vùng nông thôn đã bắt đầu có màn đấu tố địa chủ. Nhà thờ cũng là một đối tượng cần triệt hạ. Kinh tế khó khăn, lại thêm chính quyền địa phương bắt đầu làm khó dễ cha sở trong việc để cho tôi nương náu nên ngài đành phải gửi tôi sống chung với mấy người vốn là con mồ côi của bà phước ở Kim châu, hiện làm nghề đẩy xe cộ.
 
Hai anh bạn mới này ngụ trong một căn nhà lá trống trơn dựng tạm trên nền của một dinh thự cũ đã bị đập nát trong khu thành Bình định cũng đã bị san bằng từ thời chính quyền ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, nay chỉ còn lưu dấu vài tảng đá ong rải rác đây đó cùng với cái vòng hào bao quanh mà thôi. Họ thường cùng nhau đi tới các chợ, mua các thổ sản địa phương như gạo, đậu từ An nhơn và Tuy phước chở đầy cộ rồi lại ì ạch kẻ kéo người đẩy, đem ra các huyện phía bắc như Bồng sơn, Tam quan để bán. Sau đó lại mua các sản phẩm ở Bồng sơn đem về bán ở các chợ phía nam.
 
Lúc này máy bay tăng cường bắn phá, không những chỉ nhằm vào các trục giao thông mà còn nhằm luôn vào các điểm có đông người tụ tập nên chợ búa chỉ nhóm họp về đêm. Nhìn cảnh những ngọn đèn le lói di chuyển rời rạc trong đêm từ những lùm bụi âm u kéo nhau tập trung về một điểm của những người đi họp chợ đêm, tôi có cảm tưởng như đang nhìn một bầy ma trơi đi trẩy hội, hay cũng có thể là một bầy ma Hời đang đi tìm lại ngày xưa.
 
Tôi chưa bao giờ tưởng tượng có một ngày mình sẽ bước vào cái nghề buôn bán này, cho nên tôi không hề suy nghĩ đến những mánh lới gian xảo hay những điều so đo tính toán thiệt hơn trong khi giao dịch. Tôi rất ngượng nghịu khi phải nói những điều mà mình chỉ muốn bảo người nghe đừng có dại mà tin theo. Tôi biết mấy người bạn mới này cũng nhận thấy tôi chẳng giúp ích được gì cho họ, thêm vào đấy, tôi cũng chưa hẳn lớn đủ sức để có thể kéo hay đẩy chiếc cộ như mọi người nên sau khi theo mấy anh này lặn lội được vài chuyến, tôi tự biết mình không kham nổi đành lẳng lặng bỏ ra đi. 

ĐOÀN VĂN KHANH 

No comments:

Post a Comment