Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Tuesday, February 5, 2013

TÌM MỘT QUÊ HƯƠNG [18]

Ký sự Tùy Bút

MỘT CHÚT RONG CHƠI

Hồi ra dạy học, do phụ trách môn Việt văn nên cha tôi cũng đã tìm mượn được một số sách báo cũ để làm tài liệu. Có nguyên cả một bộ báo Ngày Nay đã được đóng thành tập. Trước đây cha tôi vẫn giới hạn tôi trong việc đọc các loại sách báo người lớn. Nay thì tôi tha hồ đọc. Qua tập báo Ngày Nay, tôi đã đọc được vô số tác phẩm của Tự Lực Văn đoàn. Tôi để ý đến vài nhân vật trong một số tác phẩm của Nhất Linh và của Hoàng Ðạo, và tự nhiên tôi liên tưởng đến cha tôi.
 
Tuy không hiểu sâu sắc vấn đề nhưng tôi cảm thấy cha tôi và mấy chú có nhiều điểm giống với mấy nhân vật trong Ðôi bạn của Nhất Linh, hay trong Con đường sáng của Hoàng Ðạo. Mấy nhân vật trong các truyện này đều là những người hấp thụ nền tây học, thương nước nhà lạc hậu, thương dân lành cực khổ và bị áp bức, muốn đem cái sở học của mình ra để phục vụ quốc gia dân tộc. Vốn mang nhiều thiện chí, nhưng bản chất thiên về lãng mạn và giàu mơ mộng nên các nhân vật này đã nhìn đời, nhìn xã hội qua lăng kính tình cảm chủ quan và phiến diện của mình. Do đó có người thì ra làm quan với ý hướng đem sự hiểu biết cũng như đức độ của mình để mang lại công bình cho dân nghèo, có người thì lại đi làm cách mạng theo kiểu hiệp sĩ đi cứu đời, lao mình vào sương gió như một niềm vui.
 
Cha tôi cũng đã từng từ bỏ cuộc sống an nhàn của một người công chức thành phố để ra làm quan ở một vùng quê buồn tẻ vào thời điểm gần cáo chung của một chế độ lỗi thời. Sau đó người lại dấn thân vào cách mạng với mẫu người Hướng đạo mang tâm hồn phóng khoáng, yêu công bằng và lẽ phải, và muốn đem cái tinh thần đó ra gieo rắc an vui cho đời giữa thời đại mà con người chỉ thích lao mình vào cơn mê của những lý tưởng không tưởng.
 
Bản Hành khúc của Liên đoàn Hướng đạo Tây Sơn Bình định do cha tôi đặt lời cũng đã bộc lộ lên cái tinh thần hiệp sĩ lãng mạn này. Bài hát có những câu như sau:

Lòng mang niềm hân hoan, bước chân rộn ràng vui sắc xuân
Cùng nhau ta bước mau, người trước người sau
Say sưa hương vị dãi dầu cuộc đời sương gió
Ta đi gieo mầm vui Hướng đạo ở khắp nơi...

Trong chiều hướng xã hội đang bị gò ép đi vào con đường đấu tranh gây căm thù giữa con người với con người mà cứ mang cái tinh thần hào hiệp tự do phóng khoáng này ra thi thố thì chỉ mang lấy thiệt vào thân. Ðiều này làm cho tôi cảm thấy cuộc sống của mình có vẻ như lạc lõng và tương lai của mình cũng chỉ là một cái gì đó rất bấp bênh và mơ hồ. 

Ðọc báo nhiều tôi bỗng nảy ra cái ý tập viết văn làm báo. Tôi bèn rủ mấy người bạn trong xóm từng theo học lớp tư gia của cha tôi làm một tờ báo tay, bắt chước theo các tờ báo tay của học sinh nhà trường. Mấy người bạn, kể cả vài ba anh lớn tuổi và học lớp trên tôi cũng đang buồn vì cái nạn nghỉ học nửa chừng, nên khi nghe tôi đề xướng làm báo để giúp nhau luyện văn cũng là một cách giải trí bổ ích và tao nhã, liền hưởng ứng ngay. Dù sao thì tôi cũng được tiếng đã từng đại diện cho trường nhà đi thi học sinh giỏi toàn tỉnh và cũng đã chiếm được giải môn Văn trong niên học vừa qua.

Chúng tôi đồng ý với nhau là ai muốn viết gì thì viết, miễn có bài để lên báo là được rồi. Nhưng qua đến phần đặt tên cho tờ báo thì đúng là một cuộc bàn cãi sôi nổi. Người thì muốn tên tờ báo phải nói lên một khát vọng nào đó, kẻ thì thích chọn một cái tên thật hiền hòa thơ mộng. Càng bàn thì càng đẻ ra lắm tên. Cuối cùng thì cũng đẻ ra được một cái tên mà không còn ai đủ sức để mà phản đối, đó là "Tập Báo", có nghĩa là tờ báo của những người mới tập làm. Thế là tạm kết thúc được mục bàn cãi để tiến tới việc thực hiện, nhưng cái tên thì tôi nghe vẫn chói tai thế nào ấy.
 
Tờ báo ra số đầu tiên. Sau khi chia nhau chép, vẽ và trình bày lên giấy rồi đóng lại thành một tập dày bằng khuôn khổ quyển vở học trò, chúng tôi chuyền tay nhau ngắm, còn đọc thì chúng tôi đã đọc nhão ra rồi, từ lúc " báo chưa lên khuôn" và " đang lên khuôn" nên cũng chẳng còn gì để đọc. Tuy nhiên ai nấy đều vui thích thấy bài của mình "đăng" trong tờ "Tập Báo" chẳng thua kém gì mấy nhà văn lúc mới bắt đầu viết thấy sáng tác của mình được đăng lên báo Ngày Nay.

Mặc dù chúng tôi đã đồng ý với nhau là chỉ "phổ biến nội bộ", nhưng không hiểu do đâu mà tờ báo cũng đã lọt tới tay mấy chú bác, vượt ra ngoài khu vực họ Gò xoài và rồi đi xa tới đâu thì cũng không còn ai biết được. Phấn khởi trước thành quả của mình, chúng tôi bàn nhau ra tiếp số 2, nhưng nhìn lại thì hình như cây bút nào cũng đã cạn ý văn, lại nhằm lúc chính quyền có chủ trương cấm phổ biến và tàng trữ các loại sách báo có khuynh hướng tự do hay tư sản lãng mạn, chúng tôi cũng nhận thấy việc mình làm là điều không hợp thời và có thể đưa tới những hậu quả không hay, nên tờ báo cũng chỉ thực hiện có một số đó rồi thôi.
 
Liên tiếp sau đó thì trong gia tộc họ Trương cũng xảy ra vài chuyện buồn. Bác Hai, cha của anh Ba, đau bệnh phổi đã lâu, nay cũng vừa qua đời. Chú Năm cũng bỏ mất đứa con sinh nhằm lúc cha tôi về sống tại ngôi nhà này nên chú đã chọn cha tôi làm bõ đỡ đầu cho nó. Rồi tiếp đó là cô em gái của anh Ba, người con gái mang chứng bệnh kinh niên cũng lên cơn bệnh mà chết. Dù ngày ấy tôi chưa hề nghĩ đến một điều gì xa xôi, nhưng cái ấn tượng bàng hoàng mà người con gái ấy đã gây cho tôi lần đầu tiên khi tôi tới xứ này vẫn mãi mãi là một cái dấu ấn trong tâm tưởng của tôi.
 
Từ khi bác Hai qua đời, lại không có chỗ học hành khiến anh Ba không biết làm gì cho qua ngày giờ nên vẫn hay đi thăm bà con của anh ta ở khắp nơi trong tỉnh. Vì tôi cũng đang lông bông giống anh ta nên anh hay rủ tôi cùng đi. Tôi đã theo anh ta về Hòa mục, thuộc huyện Phù cát, quê ngoại của anh ta. Cậu Hai tức là cậu của anh Ba thấy tôi mừng lắm. Tôi chưa biết cậu Hai nhưng cậu Hai thì lại biết tôi từ những ngày tôi còn bé ở huyện vì ngày ấy cậu cũng là chức sắc trong làng nên có dịp biết cha tôi. Cậu kể cho tôi nghe những chuyện về cha tôi mà tôi không biết, hay là có những chuyện mà tôi đã quên khuấy từ lâu rồi.
 
Phong cảnh xứ Hòa mục có vẻ buồn nhưng cũng có một cái thú đặc biệt. Vì vùng này gần rừng núi lại có nhiều ruộng mía nên có một loài chim vẫn thường kéo nhau về ngủ trong các đám mía hằng đêm. Muốn bắt chim người ta phải quan sát trước từ chiều xem đám mía nào có nhiều chim về ngủ. Ðợi đêm tối, người ta giăng một cái lưới cao vượt đầu ngọn mía ở cuối ruộng. Vài người khác lên đầu ruộng thả một sợi dây thừng dài ngang ngọn mía rồi chia nhau đi dọc theo hai bên bờ và kéo cho sợi dây lướt về cuối ruộng. Sợi dây lướt trên ngọn mía tạo ra một âm thanh xào xạc làm cho lũ chim đang ngủ bị giật mình choàng dậy, chuyền theo cây mía tránh vùng tiếng động cho đến khi đụng vào lưới. Người ta chỉ việc ập lưới xuống là tha hồ bắt. Mỗi mẻ lưới có khi bắt được hàng trăm con.
 
Chim mía nhỏ như chim se sẽ và đem chiên lên ăn rất ngon, nhưng khi nhìn những con chim nhỏ đang còn vùng vẫy như muốn tung bay bị người ta vặn cổ vặt lông, tự nhiên tôi lại thấy gần như bất nhẫn, hết muốn ăn thịt chim. Người ta vẫn bảo: "Ðất lành chim đậu." Nhìn những con chim bé nhỏ này nằm nghoẻo cổ bất động, tôi bất giác nghĩ thầm: Có lẽ những con chim này đã chọn nhầm đất lành.
 
Tôi cũng từng theo anh Ba đi vào An nhơn, Tuy phước, đến xứ Vườn Vông, hay xuống tận Gò Bồi, Gò Thị. Xứ Vườn Vông có loài chim dồng dộc chuyên làm tổ bằng rơm sợi kết lại, có hình dáng từa tựa quả bầu đeo lủng lẳng chi chít trên các cành cây keo nên nhìn xa xa cứ tưởng như một loài cây lạ mang trái. Không biết có phải vì thịt loài chim này ăn không ngon hay tại người dân ở đây thừa lúa gạo nên cũng lắm từ tâm, do đó mà chẳng có ai phá những tổ chim này cả nên chim ở đây vẫn yên tâm làm tổ.
 
Vì là vùng đồng ruộng, ít đất vườn, cho nên đường đi lại từ xóm này qua xóm khác nhiều chỗ chỉ là bờ ruộng. Ruộng đồng tốt lúa thì cũng tốt cho cả đỉa. Tôi không biết điều đó nên lúc đầu còn mạnh dạn lội xuống ruộng mà đi ở những nơi bờ bị lở cho đến một lần nọ, vừa bước qua khỏi chỗ lội, tôi bỗng nhiên cảm giác như có cái gì nhơn nhớt khác thường nơi ống chân bèn nhìn xuống thì nhận ra là mấy chú đỉa đang đeo cứng ở đó.
 
Lần đầu tiên trong đời tôi bị đỉa cắn và hiểu được thế nào là dai như đỉa đói. Vừa sợ vừa lúng túng không biết làm cách nào để gỡ mấy của nợ này đi thì được anh bạn địa phương bảo tôi xòe bàn tay ra, nhổ vào một bãi nước bọt, xoa lên mấy con đỉa rồi bốc quăng. Thật là nhẹ nhàng giản dị. Thì ra đỉa tuy thích hút máu người nhưng lại kỵ nước miếng của người. Phải có như thế chứ, nếu không làm sao những người nông dân kia có thể thản nhiên lội bì bõm dưới ruộng cả ngày được.
 
Cũng có lần tôi theo anh Ba lên tận vùng Sông Cạn, An thái thuộc huyện Bình khê. Ðây cũng là vùng đất nơi xưa kia anh em nhà Tây Sơn dấy nghĩa. Nơi đây không xa đèo An khê là biên giới tỉnh Bình định với miền Cao nguyên do Pháp chiếm nên đêm đêm người ta có thể nghe thấy tiếng đại bác bắn cầm canh. Bên kia đèo là vùng địch chiếm. Tôi đang sống ở vùng tự do, nhưng cái tự do của tôi là phải biết dừng lại ở bên đây nếu không muốn thấy mình bị du kích bắt trói dẫn đi thủ tiêu.
 
Chính nhờ theo anh Ba đi đó đây mà tôi có dịp biết thêm nhiều vùng khác nhau của đất Bình định cùng những tập quán cá biệt nhỏ của từng vùng. Có một điều là ở đâu thì họ cũng nhận nhau qua tiếng " nẫu " nhưng không vì thế mà họ không hiếu khách hay không thích những người không cùng chung một giọng nói nếu như họ chưa bị con ma Hời ám ảnh để nhìn người không giống họ là kẻ thù. 

ĐOÀN VĂN KHANH

No comments:

Post a Comment