Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Tuesday, February 5, 2013

TÌM MỘT QUÊ HƯƠNG [14]

Ký sự Tùy bút

VẪN CHỈ LÀ TẠM BỢ

Ðược trở về với khung trời quen thuộc, tôi vui thích trong lòng. Nhưng tôi lại vừa mất đi một nguồn vui. Dựa vào chính sách cho hồi cư của Chính phủ, bác Tâm đã xin được phép trở về sum họp với bác gái đang ở trong vùng bị chiếm. Mấy đứa con bác Tâm về Huế đã làm cho tôi thiếu mất bạn vui chơi. Và cũng vì bác Tâm không còn ở Bồng sơn nữa, gia đình tôi cũng bớt tới lui nhà ông bà Cả.
Tôi vẫn tự hỏi tại sao cha tôi lại không xin trở về thành phố như bác Tâm hay như một số cựu công chức thời Tây khác có phải sung sướng hơn là cứ sống mãi ở đất Bình định gian khổ này không. Từ ngày vào đây tôi chỉ nhìn thấy chiến tranh và cuộc sống thì càng ngày càng bi đát hơn.
 
Về lại Bồng sơn tôi cũng không đi học ở trường nữa mà hằng ngày cha tôi ra cho tôi vài bài toán hoặc một bài luận văn gì đó. Em tôi cũng được ra cho bài tập đọc và tập viết. Tôi ở nhà tự lo học lấy và kèm cho em tôi học, tới bữa lại qua nhà cô Tám ăn cơm. Mỗi chiều cha tôi về lại sửa bài cho anh em tôi, dạy thêm cho một ít bài mới, để rồi qua ngày hôm sau lại cứ tiếp tục như vậy.

Vì thì giờ rảnh rỗi nhiều nên tôi hay lục lạo sách vở của cha tôi để tìm xem có sách gì mình có thể đọc được nhưng ngoại trừ mấy tờ báo Ðường của Hướng đạo, còn lại thì toàn là sách nghiên cứu bằng tiếng Pháp tôi không đọc nổi. Một hôm cũng do lục lạo sách vở, tôi khám phá ra quyển nhật ký của cha tôi. Tôi lén đọc một cách say mê. Thì ra cha tôi cũng đã có cảm tình với cô Thùy từ lâu nhưng vẫn chỉ biết ôm ấp điều ấy cho riêng mình để rồi thổ lộ vào trang nhật ký mà thôi. Tự nhiên tôi thấy thông cảm với cha tôi hơn, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy mình như mang thêm một mặc cảm tội lỗi nào đó đối với mẹ. Hình như tôi đã có phần đồng lõa với cha tôi trong niềm lãng quên mẹ, vì chẳng phải trước đây tôi cũng đã có những lúc mơ tưởng được có cô Thùy làm mẹ của mình đó sao.
 
Kể từ ngày không còn phải bận bịu về chuyện lo săn sóc mẹ tôi thì cha tôi lại càng hăng say hoạt động theo chí hướng. Ngôi nhà sàn bé nhỏ như là một trạm vãng lai của những người cùng chung lý tưởng. Tôi có dịp biết thêm nhiều chú bác mới, nhưng lúc này trong các lần gặp gỡ giữa cha tôi và các chú bác, tôi thường nghe có những câu chuyện nói về những người khác bằng những từ ngữ thật lạ tai như: "I tờ rít, bị nhuộm đỏ, dinh tê, dân tạch tạch sè..." Các chú bác cũng thường hay bàn luận về những chuyện chính trị gì đó mà tôi không muốn bận tâm tìm hiểu. Tôi không thích chính trị. Hình như chính trị lúc nào cũng là những chuyện giết chóc và tàn bạo, chỉ mang lại cho tôi những điều không may.
 
Với niềm mơ ước hiền hòa được sống yên lành dưới một mái nhà, tôi bắt đầu gầy dựng cho mình một góc riêng bé nhỏ. Chú Chinh tìm cho tôi một cái thùng gỗ nhỏ kê lên làm cái bàn, bên dưới tôi ngăn thành như cái kệ để sách vở. Tôi sắp lô Sách Hồng và quyển truyện Lỗ bình sơn ngay ngắn cho ra vẻ tủ sách. Ðặt thêm một cái ghế xếp con con vào đấy, thế là tôi đã có một vị trí tạm gọi là ổn định để cho mình gắn bó và không còn mang cảm tưởng nơi đây cũng chỉ là tạm bợ. Tôi bắt đầu lưu luyến với căn nhà sàn bé nhỏ.
 
Nhưng căn nhà sàn bé nhỏ thì hình như lại không tha thiết với tôi. Vì được làm bằng tre lá sơ sài, lại chênh vênh trên mấy hàng cột khẳng khiu lỏng lẻo nên căn nhà cũng thật là mong manh, mới chưa đầy hai năm mà đã thấy lung lay trước gió. Ðể củng cố cho căn nhà chịu đựng mùa mưa bão năm ấy, các anh em Hướng đạo đã trổ tài tháo vát, đóng cọc chăng dây níu chằng bốn phía giống như căng lều cắm trại. Nhưng rồi vào một buổi sáng mưa bão cuối kỳ, có lẽ nhằm ngày nghỉ nên có cha tôi ở nhà và có cả chú Phiên từ xa ghé về chơi từ mấy hôm nay, cả hai đang cùng uống trà ngâm thơ Ðường thì bỗng nghe một tiếng "rắc", rồi cả căn nhà ụp xuống như một cái bẫy sập.

Qua cơn giật mình ngơ ngác, tất cả mọi người hoàn hồn liền vạch tre lá chui ra nhìn nhau cười. May mắn không một ai hề hấn gì cả. Chỉ bị một phen hú vía và ướt lạnh mà thôi. Riêng tôi lại thêm một lần nữa cảm thấy mình bị mất mát. Nhìn đống tre lá ngổn ngang trong mưa bão, tôi liên tưởng đến hình ảnh con tàu bị đắm của anh chàng Lỗ bình sơn và xin đành giã từ cái thế giới bé nhỏ mà tôi vừa thiết tha gầy dựng.
 
Cũng may là nhà ông Biện chủ vườn cũng còn một gian bên cạnh bỏ trống nên cha tôi tạm dọn về đấy. Các chú bác vẫn tới lui nhưng tình hình thì lại đang có nhiều biến chuyển. Cha tôi hình như cũng đang có những dự tính khác cho nên tôi không thấy cha tôi tỏ vẻ gì muốn cất lại căn nhà khác thay thế cho căn nhà đã sụp đổ.
 
Còn khoảng hai tháng trước ngày tôi phải thi Tiểu học, cha tôi lại gửi tôi ra Tam quan ở với chú Ðức để theo học trường Mính viên, một trường tư thục mang tên bút hiệu của cụ Huỳnh, nhà cách mạng lão thành từng giữ chức Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Mới vài năm trước tôi còn theo đoàn Hướng đạo ra đón cụ ở sân ga Bồng sơn khi cụ ghé lại đây trong dịp cụ đi kinh lý các tỉnh phía nam, nhưng liền sau đó tôi lại nghe nói cụ đã qua đời. Những người sáng lập ngôi trường này muốn tưởng nhớ cụ nên đã chọn bút hiệu của cụ đặt tên cho trường, nhưng đối với đám học sinh nhỏ như chúng tôi thì hình như cũng chẳng ai hiểu được cái ý nghĩa này mà người lớn thì hầu như cũng không thấy ai dám công khai giải thích ra cái điều ấy, mặc dù trước đây tôi cũng đã có nghe cha tôi và các chú bàn tán rất nhiều về cái chết đột ngột của cụ trong khi còn công cán ở tỉnh Quảng ngãi.
 
Chú Ðức cũng là một huynh trưởng Hướng đạo và tuy làm giáo viên, chú còn là chủ một xưởng vấn thuốc điếu ở đây. Nhà chú nằm dưới phố trên con đường đi xuống cửa biển. Ðây mới thật là khu phố cổ và chính của Tam quan. Vì người Hoa ở khu vực này đông nên phố ngói vẫn còn nhiều, nhưng tất cả đều theo lối kiến trúc cũ của Tàu, lại mang quá nhiều nét sinh hoạt thương mại của người Hoa khiến cho tôi không thích.
 
Dọc theo một bên phố có những đầm nước mặn, nước triều lên xuống, và trên các bãi cạn có những chiếc ghe bầu to lớn nằm phơi mình bất động. Người ta bảo trước chiến tranh Tam quan là một nơi phồn thịnh vì là chỗ cửa biển có ghe bầu chuyên chở các sản phẩm về dừa của địa phương này đi khắp nước. Bây giờ chính phủ cấm thông thương nên phố xá cũng tiêu điều và những chiếc ghe bầu cũng chỉ đành nằm yên một chỗ, giương đôi mắt thao láo nhìn đám cây bần, cây đước mọc quanh bờ, tủa rễ ra bấu vào lòng đất như những ngón tay bấu vào người mà quên đi một thời vượt sóng gió, ra bắc vào nam.
 
Thị trấn Tam quan đối với tôi có vẻ như một xứ sở của dân chệc. Ngay cả ngôi mộ A Sầu, được coi là một kiến trúc thắng cảnh nơi đây cũng là của người Hoa. Do đó mà suốt thời gian sống ở thị trấn này, tôi luôn cảm thấy mình như đi lạc qua Tàu. Cũng may là sau khi thi xong bằng Tiểu học cũng là nghỉ hè, tôi lại được trở về Bồng sơn. 

ĐOÀN VĂN KHANH

No comments:

Post a Comment