Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Wednesday, February 6, 2013

TÌM MỘT QUÊ HƯƠNG [1]

Ký sự Tùy bút

CHÚT NGUỒN GỐC XA XÔI

Không biết tôi bắt đầu có ý thức về hai tiếng quê hương từ tuổi nào, và thoạt đầu tôi đã hiểu như thế nào là quê hương, nhưng hình như tôi luôn luôn có cái cảm nghĩ quê hương chỉ là một nơi chốn nào đó, đã lưu lại trong tâm hồn của mình những dấu ấn sâu đậm, rồi mình lại phải cách xa để cho mình nhớ, mình thương, hay là mình xa xót, chứ không phải là nơi để cho mình sống cuộc đời của mình.
 
Thời tôi còn niên thiếu, sống ở Bình định, nhiều người vẫn hay hỏi tôi quê quán ở đâu. Tôi chẳng biết trả lời thế nào cho xuôi vì tôi cũng không biết đâu mới là quê tôi thực sự. Tôi chỉ biết chắc có một điều là tôi không sinh đẻ tại Bình định, không nói giọng Bình định, cũng như tôi không hề có một ai gọi là bà con ruột thịt ở tại xứ này cả.
 
Quê nội tôi đâu mãi ngoài Bắc ninh nhưng chính cha tôi cũng không sinh trưởng tại đó. Ngày xưa ông nội tôi vào làm việc tại Nghệ an nên cha tôi sinh tại thành phố Vinh. Lớn lên người có ra Hà nội học. Khi ra trường bắt đầu vào cuộc đời công chức thì người cũng lại theo nhu cầu công vụ mà phải thuyên chuyển khắp nơi.
 
Mẹ tôi người Hà tĩnh nhưng lại sinh đẻ ở Huế. Người cũng theo ông ngoại tôi sống ở nhiều nơi cho đến khi khôn lớn mới trở về quê Hà tĩnh. Sau khi kết hôn, mẹ tôi theo cha tôi ra Thanh hóa. Tôi sinh ra đời tại thành phố này. Từ khi sinh ra cho đến năm lên sáu, tôi cũng đã theo cha mẹ sống qua tại mấy thành phố từ Thanh hóa, Vinh rồi đến Huế. Trừ thời gian ở Huế, tôi còn ghi nhớ được đôi chút, còn những nơi trước đó tôi không biết gì cả. Năm lên sáu tuổi tôi lại theo cha mẹ vào Bình định. Và tôi đã lớn lên tại miền đất này.
 
Thực ra cha tôi chưa hề kể cho tôi nghe một tí gì về quê nội. Những điều tôi biết được về cái nguồn gốc xa xôi của mình lại do tôi gom góp từ những điều cha tôi kể với bạn bè của người những lúc vui câu chuyện. Ông nội tôi có một dòng con lớn ở Hà đông. Tôi không nghe cha tôi nói cho biết tôi có bao nhiêu cô bác thuộc dòng này. Cha tôi là dòng sau. Bà nội tôi gốc ở Phú yên. Tôi không nghe ai kể ông nội tôi đã gặp bà ở đâu cũng như không được nghe ai nhắc nhở về những bà con bên phía bà nội tôi cả. Tuy nhiên chính bà nội tôi lại là kẻ luôn luôn sống bên cạnh ông nội tôi cho đến cuối đời. Khi về hưu, ông tôi lập ra một trang trại ở Nghệ an để dưỡng già, cất một căn nhà tại thành phố Vinh và qua đời tại đây.
 
Cũng vẫn vào những lúc vui câu chuyện, cha tôi có kể cho bạn bè của người là ông nội tôi vốn nghiện rượu. Ngày cha tôi làm việc ở Vinh, tôi mới lên ba tuổi. Vì chỉ có tôi là cháu nội sống gần nên ông nội cưng tôi lắm. Có nhiều lần ông nội tôi uống rượu, tôi cũng được ông đưa chung lên môi cho nhắp thử. Tôi nhăn mặt. Ông lại tập cho tôi "khà" theo ông. Từ đó về sau, hễ khi nào uống rượu có một mình, ông tôi lại bắt bế tôi lại ngồi bên cạnh để ông cháu cùng uống rượu. Ông nâng chung rượu nhắp một hơi, khà một tiếng, và tôi khà theo ông, thật là tương đắc. Có điều là lớn lên tôi chưa bao giờ nghiện rượu. Ông tôi mất vào năm tôi còn quá nhỏ nên kỷ niệm này cũng đã theo ông tôi mà trôi vào quá khứ chứ chưa ghi nổi vào trong ký ức còn non nớt của tôi.
 
Bà nội tôi vừa ham thích tổ tôm,vừa say mê đồng bóng. Mẹ tôi hình như rất kỵ hai khoản này. Do đó mà sau khi ông nội tôi mất, cha tôi đã xin đổi vào làm việc tại Huế. Bà nội tôi vẫn sống ở Vinh với mấy cô tôi lấy chồng ở gần quanh. Bác tôi lúc bấy giờ đang làm việc ở Nam vang. Còn chú tôi lại làm việc ở Hà nội. Tôi không nhớ nổi là tôi đã gặp chú và bác của tôi lần nào chưa vì tôi không bao giờ hình dung được khuôn mặt của một ai. Sau cuộc Toàn quốc Khởi nghĩa năm 45, cha tôi có được tin bà nội tôi qua đời. Chú bác và cả cha tôi đều mỗi người một phương trời, không ai về được cả. Sau đó thì chiến tranh xảy ra và chẳng còn ai liên lạc được với ai nữa.
 
Tôi có về thăm quê ngoại vài lần. Ngày ấy tôi còn nhỏ quá nên cũng chẳng biết được bao nhiêu. Tôi chỉ nhớ lờ mờ có một giòng sông và hình như trên giòng sông đó tôi được đi đò lần đầu tiên trong đời. Ông ngoại tôi cũng đã một đời đi làm việc nhiều nơi và chỉ đến tuổi nghỉ hưu mới trở về quê cũ, cất lại ngôi nhà mới ở Phủ đức, và thỉnh thoảng đi săn voi như là cái thú vui của mình. Mỗi lần ông ngoại tôi đi săn, cả làng rủ nhau đem gióng gánh đi theo. Khi hạ được voi, ông ngoại tôi chỉ cưa lấy cặp ngà. Nguyên con voi còn lại, cả làng muốn chia nhau như thế nào thì chia.

Bà ngoại ruột của tôi mất tại Huế khi mẹ tôi mới lên hai tuổi. Bà ngoại kế của tôi người Phan rang, hình như người Minh hương. Ông ngoại tôi đã gặp bà lúc đổi vào làm việc tại đây. Bà ngoại kế không có con nên nuôi một người cháu gọi ông ngoại tôi bằng bác ruột làm con. Ngày còn nhỏ tôi có gặp cậu lúc tôi theo mẹ về thăm quê ngoại. Cậu nhìn tai tôi và bảo rằng tôi sống lâu. Cậu lại bảo tôi xoè bàn tay cho cậu xem tướng. Tôi xoè tay ra thì cậu nhổ ngay một bãi nước miếng vào lòng bàn tay tôi và bảo: "Ðừng có bao giờ ngu đưa tay cho đứa nào xem bói".
 
Sau đó tôi nghe mẹ tôi nói cậu đã vô Sàigòn. Còn cậu ruột, anh của mẹ tôi thì học ở Hà nội, ra trường lấy vợ Bắc, rồi được đổi vào làm việc ở trong Nam từ lúc tôi chưa ra đời nên tôi cũng chỉ nghe mẹ tôi kể chuyện chứ chưa biết cậu mợ tôi bao giờ. Ngoài một số kỷ niệm về ông bà ngoại mà tôi chỉ có thể nhớ lại một cách rời rạc và mơ hồ ra, tôi hầu như cũng chẳng biết gì về cảnh vật và con người của miền quê ngoại.
 
Mối liên hệ giữa những người bên nội và những người bên ngoại của tôi cũng rất hời hợt. Nếu xét theo quan niệm thời bấy giờ thì cuộc hôn nhân giữa cha mẹ tôi vẫn là môn đăng hộ đối. Cả hai bên nội ngoại đều làm quan, phẩm trật ngang nhau. Ðiều khác nhau duy nhất là tôn giáo. Bên nội tôi thờ kính tổ tiên. Bên ngoại tôi thờ phượng Thiên Chúa.
 
Ðối với người Ky Tô hữu thời ấy, nếu một người con gái lấy chồng bên lương mà không lôi cuốn được chồng theo đạo cũng cầm bằng như bỏ đạo. Ðó là một điều không bao giờ gia đình chấp thuận. Ðể vượt qua trở ngại đó, cha tôi đã trở lại đạo để được ông ngoại tôi chấp nhận làm con rể. Nhưng bên nội tôi lại xem như đã có một đứa con lỗi đạo với tổ tiên. Quan niệm khắt khe của đạo công giáo đối với việc thờ cúng ông bà vào thời đó là một trở ngại rất to lớn đối với người lương muốn vào đạo, hoặc tạo ra một hoàn cảnh khó xử cho người theo đạo mà gia đình cha mẹ vẫn bên lương. Và đây cũng chính là cái điều đã khiến cho mẹ tôi ít có dịp được vui vẻ gần gũi với người thân yêu bên chồng của mình. Và cũng do tình cảm lạnh nhạt này, tôi gần như có một mặc cảm đối với bên nội. Cha mẹ tôi có đạo tất nhiên tôi cũng là người bên đạo.
 
Nhìn vào hai gia đình bên nội lẫn bên ngoại của tôi đều là sự kết hợp của những người ở nhiều miền khác nhau, để rồi lại tỏa ra khắp bốn chân trời góc biển, không sống cố định ở một địa phương nào thật lâu bền nên cũng thực khó mà gây cho tôi một ấn tượng rõ ràng về quê hương. Hình như đâu tôi cũng có một chút xíu dính líu nhưng cũng không có chỗ nào tôi thực sự gắn bó đời mình. Tôi cũng không nói rặc giọng của một vùng nào trên đất nước này cả. Và khi vào đến xứ Bình định này, nếu không vì thời cuộc thay đổi đã cầm chân cha mẹ tôi lại, có lẽ vùng đất này cũng chỉ là một thoáng dừng chân trong cuộc đời của tôi và cũng không có gì lưu luyến nhiều.

ĐOÀN VĂN KHANH

No comments:

Post a Comment