Cái việc con chó cũng được các cụ
xếnh xáng con trời xưa lôi cổ vào góp mặt với các con vật
biểu tượng cho mười hai con giáp trong phép tính âm lịch thì
chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì trên quả đất này chả có dân
tộc nào xa lạ với con chó; và mặc dù các cụ đã đặt cho nó cái
tên chữ là Tuất hẳn hoi, nhưng vì cái tiếng chó nghe ra vẫn quen
thuộc hơn, cho nên năm Tuất cũng thường được dân ta gọi một
cách nôm na là năm con chó. Có điều, mỗi khi nói về tuổi tác
của những ai sinh vào năm này thì dân ta lại hay tránh gọi họ là
tuổi chó mà phải nói là tuổi Tuất, bằng không thì sẽ xảy ra
lắm chuyện rắc rối ngay.
Không
biết giữa loài người thuộc các chủng tộc khác nhau trên quả
đất này có những nợ nần ân oán riêng đối với loài chó hay
không mà đối với những dân tộc từng bị các cụ ta xưa coi là
man di bạch qủy, hoặc lịch sử lập quốc của các đám dân ấy
chỉ mới tính bằng vài thế kỷ, thì chó cũng có quyền sinh tồn
như người, cho nên chó không hề bị kỳ thị trong sự đối xử,
mà còn được coi như là bạn thiết của con người nên được nuôi
nấng, chăm lo, bảo vệ, có khi còn hơn cả con người. Trái lại,
ở những xứ mà người dân luôn mang trong mình cái truyền thống
tự hào có một nền văn hiến lâu đời như ở xứ ta và xứ Tàu
thì chó lại bị miệt thị và được coi là biểu tượng cho
giới thấp hèn tột cùng trong xã hội, do đó mà thân phận con chó
ở xứ ta hay xứ Tàu quả là bi đát và thê thảm. Câu tục ngữ:
“Lên voi xuống chó” của ta đủ chứng minh cho điều đó.
Dĩ
nhiên loài chó cũng giống như bao loài gia súc khác, trước khi
chịu ngoan ngoãn sống chung với con người dưới một mái nhà thì
tổ tiên lâu đời của chúng cũng đã từng có một thời sống
tự do ngang dọc trong thiên nhiên. Nhưng kể từ khi một số tổ tiên
của chúng bị sa cơ vướng bẫy của loài người mà bị bắt,
rồi được loài người dùng roi vọt, gậy gộc giáo dục cải
tạo cho đến khi chịu chấp nhận sống chung hòa bình với loài người
thì những thế hệ con cháu của chúng trở về sau được gọi là
chó nhà, nhằm phân biệt với những loài chó vẫn còn giữ nguyên
bản chất trời sinh và tiếp tục sống cuộc đời hoang dã như loài
lang, loài sói, được gọi chung là chó rừng, phải di tản về
những nơi rừng sâu núi thẳm để tránh xa xã hội loài người.
Mặc
dù gọi chung là chó nhà, nhưng vì tổ tiên của chúng lại do
nhiều cội nguồn khác nhau và được tổ tiên loài người ở
những vùng địa lý xa cách nhau dẫn về cưu mang đầu tiên mà chó
nhà cũng có nhiều giống: từ những giống nhỏ bằng con mèo con,
trông có vẻ hiền lành xinh xắn như con búp bê, cho tới những
giống to bằng con cọp và dữ như sư tử, đều được người ta
nuôi tùy theo sở thích hoặc mục đích riêng của mình.
Dân
ta cũng thích nuôi chó, nhưng giống chó mà dân ta quen nuôi từ lâu
thì nhỏ thó và thường được gọi là chó ta, hầu phân biệt
với các giống chó thường được gọi là chó Tây, chó bẹc-giê...,
chỉ mới được du nhập về sau này và chỉ có một số người
khá giả nào đó có nhu cầu hay điều kiện mới dám nuôi chứ không
phổ cập trong toàn dân. Ngoài ra, cũng từ khi có thêm mấy giống
chó ngoại lai này thì dân ta mới có một số người bắt chước
Tây dùng những cái tên như Tô tô, Ki ki... để gọi chó cho dễ
nghe hơn, còn trước kia hầu như dân ta chỉ cần nhìn vào sắc lông
của chó mà phân biệt như: vện, vàng, đốm, bông, khoang, mực, vá
v.v... và khi cần gọi thì chỉ việc chu mỏ, chậc lưỡi “ô ô...
xuỵt xuỵt...” là cũng đủ cho chó hiểu và tuân theo rồi.
Về
hình dáng, bộ lông và màu sắc, đầu cổ dài hay ngắn thì tuy có
khác nhau tùy theo giống chó, còn nhìn chung thì chó ta hay chó Tây,
chó bẹc-giê hay chó gì đi nữa thì cũng đều thuộc loài động
vật đi đứng bằng bốn chân giống như bò, dê, heo, ngựa
v.v..., nhưng loài chó có khác hơn mấy loài vật kia vì chó còn
biết ngồi chứ không phải chỉ biết đứng và nằm. Có điều chó
chỉ có thể ngồi theo kiểu chồm hổm, hai chân sau gập lại còn
hai chân trước chống thẳng đỡ lấy phần trước của thân thể
để cho đầu và cổ nghển cao lên, khiến cho chó ngồi lại cao hơn
chó đứng. Tuy thế, cái bộ dạng mấy con chó ta khi ngồi dưới
đất nghển cổ lên nhìn chủ đang ăn trên mâm thì trông lại vô
cùng thiểu não, vì thế mà dân ta mới hay dùng câu “chó ngồi
chực xương” để xỏ xiên những kẻ hay chầu rìa mấy người
đang có quyền có thế hòng xin chút ân huệ. Ngoài ra, cũng vì cái
kiểu ngồi độc đáo đó mà khi cơ may đưa đến cho “chó nhảy
lên mâm đồng” hay “chó ngồi bàn độc” đi nữa, chân tướng
chó vẫn không bao giờ dấu được.
Kể
ra mặt chó đâu đến nỗi xấu xí và nhăn nhó như mặt khỉ,
ngoại trừ cái mõm dù là thuộc giống nào đi nữa thì cũng đều
có màu thâm đen, khiến cho dân ta có lẽ thường xuyên bị ám
ảnh về những hình ảnh tăm tối của cuộc đời nên mới đem cái
phần u uẩn và sâu kín nhất nơi con người ra mà so sánh với cái
mõm chó như trong mấy câu ca dao rất gợi hình sau đây:
Sáng trăng suông em ngỡ tối trời
Em ngồi em để cái sự đời em ra
Sự đời bằng chiếc lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Mặc dù mõm chó đen, nhưng bộ vó
của chó cũng nhanh và khoẻ không kém gì ngựa, cho nên những dân
tộc sống ở các vùng mà mặt đất quanh năm chỉ có băng giá
phủ đầy, thường dùng chó để kéo xe trượt băng, một phương
tiện di chuyển ở những nơi không có đường sá. Những dân tộc
vốn quen sống về nghề chăn nuôi hoặc săn bắn thì chó được
nuôi và huấn luyện để chăn cừu, hoặc giúp các tay thợ săn
truy lùng các con mồi mang về nộp cho chủ. Tuy nhiên cũng có một
số người không phân biệt quốc tịch nhưng có chung máu mê cờ
bạc, thì lại xoay ra khai thác cái khả năng chạy của chó để
biến thành một trò chơi cá độ qua hình thức đua chó, một môn
đua cũng giống như đua ngựa nhưng có lẽ vì không quy mô và hấp
dẫn bằng đua ngựa nên không được thịnh hành lắm.
Chó
không thể dùng tứ chi để leo trèo như mèo, vì vậy mà khi các
cụ ta chưa biết xài tủ lạnh thì mỗi khi cần để dành đồ ăn,
chỉ cần áp dụng cái phương pháp: “chó treo, mèo đậy”, có
nghĩa là treo đồ ăn lên cao để chó không thể nào chồm tới.
Ngoài ra chó cũng không thể xử dụng hai chân trước làm tay để
nắm bắt vật này vật nọ như khỉ, nhưng nhờ mồm của chó
rất dài và rộng với bộ quai hàm rất khoẻ nên chó cũng có
thể ngoạm bằng mồm rồi tha đi, thay cho bưng bê, coi như cũng là
một cách dùng “mồm miệng đỡ chân tay” theo kiểu của chó.
Có
một điều lạ là chó và mèo đều sống chung với chủ dưới
một mái nhà, tuy vậy, hai con vật này lại tỏ ra không bao giờ hòa
thuận với nhau, cho nên dân ta mới bảo “gấu ó như chó với mèo”,
và khi hai con vật này có làm gì lầm lỗi với người thì dân ta
vẫn thích bênh mèo hơn và lôi chó ra mà trừng phạt như câu tục
ngữ: “mèo già ăn vụng, chó vá phải đòn”. Nhưng ngược lại,
không biết có phải vì các cụ ta luôn luôn bị cái nghèo truyền
kiếp ám ảnh hay không mà khi nghe mèo kêu “ngoeo ngoeo” thì các
cụ liền liên tưởng đến cái “nghèo” nên ngao ngán, còn chó
sủa “gâu gâu” nghe như “giàu” làm cho các cụ tưởng
chừng như đời sắp sửa được lên hương vậy, cho nên các
cụ cũng đâm ra mê tín: “mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì
sang”.
Phải nói là chó
nổi danh nhờ cái mồm vì ngoài cái việc dùng mồm để ăn uống,
chó còn biết dùng mồm sủa oang oang nhằm áp đảo tinh thần đối
phương, và dùng mồm làm phương tiện tấn công hay tự vệ như câu
tục ngữ: “mồm chó vó ngựa”, vì chó chỉ biết cắn
chứ không biết đấm đá. Với hai hàm răng nhơn nhởn có bốn cái
răng nanh dài và nhọn, chó có thể cắn xé đối thủ ra thành
từng mảnh. Chính vì thế mà trong những cuộc ẩu đả, nếu có
một kẻ nào đó bất thần xuất độc chiêu dùng miệng cắn địch
thủ như mấy bà đánh ghen đôi khi vẫn áp dụng thì người ta
gọi đó là môn võ chó, hay là ngón cẩu quyền cho ra vẻ ngôn từ
con nhà võ hơn.
Chó rất hay
sủa. Mỗi khi nghe tiếng động hay thấy có điều gì khác lạ
bất thường xảy ra quanh mình là chó cất tiếng sủa oang oang cho
nên ca dao mới có câu:
Chó nào chó sủa lỗ không
Chẳng thằng ăn trộm thì ông ăn mày
Thường thì “chó sủa chó không
cắn” như câu tục ngữ đã nói, hoặc ngạn ngữ Tây phương cũng
có câu: “Chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành cứ đi”, ngoại trừ
có vài con chó thuộc loại lì lợm mới không thèm sủa mà chỉ thình
lình nhảy xổ ra táp cho một vố thì mới thật hết đường đỡ.
Cái lý do chó hay sủa trước khi nhào vào cắn là tại vì chó cũng
rất sợ người, cho nên chó cần phải dựa hơi chủ mới dám
thị oai như câu tục ngữ : “Gà cậy gần chuồng, chó cậy gần
nhà”. Chó chỉ hách xì xằng đối với kẻ yếu bóng vía, còn
gặp người sang hay mấy tay sừng sỏ thứ thiệt thì chó chỉ
biết cụp đuôi chạy. Riêng đối với chủ thì chó luôn luôn sợ
hãi một phép vì nếu không có chủ nuôi thì chó nhà sẽ trở thành
chó hoang ngay, tối ngày lang thang, lấm la lấm lét, và bị coi là
chó đói, chó ghẻ. Còn người mà sợ chó chẳng qua vì ngán chủ
của chó chứ không phải chó, cho nên tục ngữ cũng có câu “Đánh
chó kiêng mặt chủ nhà”.
Khi
ra đường chó có thói quen hay dừng lại chỗ này chỗ nọ hửi
hửi, rồi đái lắt nhắt vào đó vài giọt như để đánh dấu
chỗ cần ghi nhớ. Cái lý do tại sao chó lại phải ghếch một chân
sau lên mới đái được thì tôi không rõ, nhưng ở đời cũng có
lắm kẻ hình như không bao giờ nghĩ ra được chuyện gì hay hơn
để làm nên chỉ biết xun xoe vào việc của người khác để làm
những chuyện rất thừa thãi nên người ta mới bảo là người
ấy chỉ “cầm cu cho chó đái”.
Nhờ
khứu giác của chó rất nhạy nên chó có thể đánh hơi và phân
biệt mùi một cách rất chính xác cho nên ngành Cảnh sát hay Quân
đội, người ta thường dùng chó để khám phá hàng quốc cấm, săn
đuổi kẻ tội phạm, truy lùng địch quân, v.v... Loại chó được
huấn luyện để làm những công tác như thế này được gọi là
cảnh khuyển hay quân khuyển, được nuôi nấng cẩn thận và có
người hầu hạ chu đáo. Không những thế, những con chó này còn
được mang cấp bậc, hưởng lương theo tiêu chuẩn quân nhân, và
mỗi khi lập được kỳ công thì cũng được tưởng thưởng huy
chương, đeo toòng teng nơi cổ cho người biết danh, chỉ khác người
ở chỗ chó không được đóng lên mình bộ quân phục, ngay cả
khi được dẫn đi trong hàng quân diễn hành trước khán đài vào
những dịp lễ trọng đại.
Ngoài
ra, cũng giống như hầu hết các loài thú khác, chó cũng có đuôi,
có điều cái đuôi chó đóng vai trò gì trong việc kiện toàn cấu
trúc về mặt cơ thể học và thẩm mỹ học thì tôi không rõ, nhưng
đứng trên bình diện tâm lý học mà nhận xét thì cái đuôi chó
có thể coi như một cơ phận bên ngoài để chó bộc lộ cái nội
tâm của mình, cho nên chỉ cần nhìn cái đuôi của chó là biết
ngay nỗi niềm của chó. Chẳng hạn khi tỏ vẻ vui mừng hay muốn
ve vãn gì đó thì cái đuôi vẫy vẫy, khi sừng sộ ra oai thì đuôi
vểnh lên trời, còn khi cảm thấy lo âu sợ sệt thì cái đuôi
lại cụp xuống trông thật thảm hại.
Chó
cũng đẻ con nhưng chó con lúc mới lọt lòng mẹ hãy còn mù vì
hai mi mắt bị khép chặt vào nhau. Phải ba tuần sau thì chó con
mới bắt đầu có thể mở mi mắt ra để nhìn thấy thế giới
quanh mình và cũng là để nhìn cái kiếp chó của mình trong cuộc
đời này. Để bảo vệ con mình trong thời gian còn non nớt mù lòa
này, chó mẹ thường tỏ ra rất dữ mỗi khi có người hay vật
lạ đến gần ổ con mình cho nên thành ngữ mới có câu: “dữ như
chó cái mới đẻ”.
Vào mùa
nóng bức, chó có thể bị mắc bệnh dại. Bệnh do một loại siêu
vi khuẩn có khả năng phá hủy hệ thần kinh của chó gây ra. Khi
bệnh đã biểu hiện ra bên ngoài thì chó bắt đầu trở thành điên
cuồng, bạ ai cũng cắn, ngay cả chủ của mình, và sau đó là lăn
đùng ra chết. Người bị chó dại cắn cũng sẽ lây nhiễm loại
vi khuẩn dại này mà trở nên điên cuồng, sùi bọt mồm bọt mép
rồi chết như chó nếu không được chủng ngừa kịp thời. Ngày
xưa người ta rất sợ chứng bệnh này, nhưng kể từ khi có ông Tây
Bát Tờ khám phá ra loại thuốc chủng ngừa để hóa giải sự hoành
hành của loại vi khuẩn này thì loài người mới không còn sợ hãi
như trước.
Vào cái thủa
xa xưa phải vất vả tự mưu sinh trong thiên nhiên thì có lẽ chó
chỉ biết ăn thịt, cho nên chó rất thích gặm xương, nhưng từ
khi được loài người nuôi cho ăn thì chó đành phải chịu cảnh
chủ cho gì ăn nấy. Ở các xứ mà dân chúng đã từ lâu quen
thuộc với các loại thực phẩm đóng hộp thì để phục vụ cho
chó có miếng ăn ngon, người ta cũng đã phải phát triển luôn
cả ngành chế biến thực phẩm đóng hộp dành cho chó, còn như
ở xứ ta hay xứ Tàu, nơi mà đa số người dân chỉ quen “ăn
bữa nào xào bữa nấy” thì hầu như chó chỉ còn trông cậy
hoàn toàn vào sự độ lượng của chủ. Gặp chủ khá giả thì chó
còn được hưởng vài mẩu xương thừa đã bị chủ gặm nhẵn
hết thịt. Còn như rơi vào tay chủ nhà nghèo hay keo kiệt biết vắt
chày ra nước thì chó chỉ có nước ăn cứt, vì ngoài cái
mục đích nuôi chó để giữ nhà (chứ không phải như nuôi khỉ
chỉ tổ dòm nhà), dân ta còn có tài dạy cho chó kiêm luôn cái
việc dọn vệ sinh cho con nít. Việc này mới đầu có lẽ
chỉ dành riêng cho chó, tuy nhiên nhiều khi không có chó, dân ta bèn
ép luôn cả mèo làm thay như câu tục ngữ: “Không có chó bắt
mèo ăn cứt”.
Tôi tin
chắc rằng bẩm sinh chó ta cũng không hề biết ăn cái món bã từ
bộ máy tiêu hóa của con người thải ra này, nhưng qua sự giáo
dục cải tạo của con người, chó đành phải chấp nhận để
sống. Còn dân ta thì có lẽ vì biết áp dụng cái định luật
phản xạ có điều kiện này từ hàng ngàn năm xưa, trước khi nhà
tâm lý học Bá Lốp người Nga khám phá ra, nên cứ tưởng chừng
như đó là bản chất của loài chó, để rồi tin rằng chó thì không
bao giờ chê cứt cũng như mèo thì khoái mỡ. Chẳng thế mà trong
ca dao trữ tình cũng có những câu ví von rất hiện thực:
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó ngồi trông trên bờ.
Cái lý do khiến cho chó bị buộc
phải ăn cứt nghe ra cũng rất ngộ nghĩnh. Số là các cụ xưa đã
dựa vào nền luân lý của thánh hiền đặt ra cho con người để
phê phán loài chó, cho nên khi nhìn thấy loài chó cứ nhởn nhơ làm
tình bừa bãi ngoài đường ngoài sá rất mất thuần phong mỹ
tục, lại còn không biết phân biệt liên hệ huyết thống, rất
trái với luân thường đạo lý, cho nên các cụ mới kết tội chó
là loài vô đạo đức. Từ cái bản án bất thành văn nhưng
lại vô cùng hiệu lực ấy khiến cho chó không những bị khinh
bỉ mà còn bị trừng phạt cho xứng tội.
Ngày
xưa ở bên Tàu người ta không cho phép chó ra vào bằng cổng thành
chung với người mà bắt chó phải chui qua cái lỗ nhỏ khoét ở
chân tường. Từ đó mà có thành ngữ “chui lỗ chó” để tỏ
ý khinh bỉ những kẻ phải luồn lọt mới được ra vào một nơi
nào đó, hoặc để chỉ mấy tay chuyên làm nghề đào tường khoét
vách để ăn trộm. Cũng vì chó bị liêt vào hàng đê tiện mà các
cụ bảo “chơi với chó, chó liếm mặt” thì còn gì là sĩ
diện con người. Các cụ còn dùng những cụm từ như: đồ
chó má, cái quân chó đẻ v.v... để mắng chửi kẻ khác khi coi
kẻ đó không còn là đồng đẳng với mình nữa. Trường hợp
bị người khác coi mình như chó mà không làm sao trả miếng lại
ngay trong cuộc đời này thì xoay ra nguyền rủa cho kẻ đó kiếp
sau phải đầu thai làm con chó để cho mình có cơ hội đày đọa
lại. Không những thế, ngay cả ma qủy cũng được các cụ gán
cho cái tính chê chó, cho nên người hiếm muộn hay sinh con mà khó
nuôi, thường kiêng gọi con mình bằng cái tên đẹp đẽ mà chỉ
gọi bằng cái từ xấu xí như “thằng chó con” để cho ma qủy
không thèm để ý rình bắt.
Chính
vì chó là con vật bị bạc đãi như thế đó mà thời các bậc ông
cha ta mới bị nhà nước bảo hộ Phú lãng sa bắt phải “vứt bút
lông đi, giắt bút chì” làm nảy sinh một lớp người bắt đầu
học theo cách kiếm sống bằng nghề viết văn, làm báo bằng chữ
quốc ngữ, nhưng khổ nỗi cái món văn chương chữ nghĩa ở nước
ta theo lời cụ Tản Đà thì lúc nào cũng rẻ như bèo cho nên đa
số nhà văn nhà báo đều đói rách khiến cho Nguyễn Vỹ, một nhà
văn kiêm nhà báo thời tiền chiến, một hôm nhân lúc rượu đã
ngà ngà, bèn phán cho cụ Tản Đà nghe một câu thật bất hủ đến
nỗi được ghi ngay vào văn học sử nước ta: “Nhà văn An nam
khổ hơn chó”.
Phải nói là
con chó ở xứ ta không những bị đày đọa khi còn sống mà ngay
cả khi chết cũng rắc rối. Số là dân ta có thói quen thấy con gì
nhúc nhích đều cho là hẩu xực được cả, cho nên những con
vật trót được ưu ái liệt vào hàng gia súc cung cấp thịt cho người
như trâu, bò, dê, lợn,gà... thì cứ thản nhiên mà hưởng ánh
mặt trời chờ ngày được chủ đem ra thọc huyết:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi...
Trái lại, con chó từ khi được loài
người đem về nuôi và được cải tạo để trở thành chó nhà
thì lại trót tỏ ra rất được việc và có nghĩa với chủ nên
được chủ khoan hồng không kê tên vào bản án những con vật
bị xẻ thịt. Chính vì thế mà chó mới phải có màn khóc lóc năn
nỉ:
Con chó khóc đứng khóc ngồi,
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
Dĩ nhiên không phải là con chó
khóc lóc năn nỉ xin người mua cho đồng riềng để nó ngậm cho
đỡ thúi mồm khi phải ăn cứt, mà là để cho người gia vị vào
thịt của nó cho át đi cái mùi chó khi biến chế thành món ăn, vì
thịt chó chỉ được một số đại ca thuộc các dân tộc có
chung một nền văn hiến lâu đời vốn không bao giờ dám phí của
trời mới biết dùng đến thôi. Có điều vì trót bắt chó phải
ăn cứt cho nên khi làm thịt chó, người ta thường gọi trại ra là
thịt “cầy” hay còn gọi là “nai đồng quê” để nghe cho có
vẻ thơm ra. Một vài đại ca có gốc “Háng rộng” còn dùng hai
chữ “mộc tồn” để gọi, cho nên khi muốn cho người “chậm
tiêu” cũng hiểu cần phải diễn nôm dài giòng ra là “mộc
tồn”
tức là “cây còn”, nói lái lại là thành ra con cầy vậy.
Kể
ra thì có nhiều người nghe nói đến thịt chó là tự nhiên muốn
ói, nhưng quý vị nào đã từng nếm qua mà không bị cơn dị ứng
của bao tử hành hạ thì đều quay ra ca tụng thịt chó vừa thơm
vừa lành, vì các vị ấy bảo khi nhai nuốt xong miếng thịt chó mà
lỡ còn chút sớ nào dính sót lại trong kẹt răng, ba ngày sau xỉa
ra vẫn không nghe mùi thúi như các loại thịt khác. Riêng mấy tay
hảo hán bên Tàu thì còn siêu đến độ gọi hẳn món thịt chó là
“hương nhục”, có nghĩa là thịt thơm. Còn ở xứ ta thì những
món như tiết canh chó, dồi chó, rựa mận v.v... xưa nay vẫn được
dân ái mộ sắp vào hàng quốc túy, và có kẻ còn oang oang tuyên
bố: “sống ở dương gian ăn miếng dồi chó” như là cứu cánh
của cuộc đời. Có một điều là hình như xưa nay vẫn chưa có
ai dám dùng thịt chó để cúng kiếng cả.
Thịt
chó ngon phải là chó còn trong trắng chưa nếm mùi đời, cho nên dân
mộ điệu mới đặt cho cái tên là cầy tơ. Từ đó đẻ thêm ra
cái tiếng lóng “cờ tây” và câu chuyện vui thời Việt Minh kháng
chiến. Nhằm bảo vệ bí mật cho mấy ngài cán bộ, mấy ông du kích
ban đêm đi rình mò mà không bị nhân dân phát giác vì tiếng chó
sủa nên nhà nước ta bèn cho mở ra chiến dịch giết chó, thế là
các ông du kích có thêm công tác và tha hồ rủ nhau lập thành tích
“hạ cờ tây”, tức là đi lùng bắt mấy con cầy tơ về làm
thịt, vừa no nê ấm bụng vừa khoẻ tấm thân, chứ không phải
phơi xương đổ máu như những anh chàng bộ đội xung phong đánh
đồn.
Ngoài cái chuyện bị
khinh bỉ vì thiếu đạo đức, chó còn bị dân ta sắp hạng chung
với bò, heo về cái mặt ngu cho nên kho thành ngữ mới có thêm
mấy cụm từ: ngu như bò, ngu như heo, ngu như chó... Kể ra hệ số
thông minh của loài chó đâu đến nỗi kém so với các loài vật
khác, bằng cớ là người ta đã dạy cho chó làm được rất
nhiều việc: từ tay sai vặt, giữ nhà, cho tới làm tài tử đóng
phim, nhưng dân ta thì nhất định cho chó là ngu. Điều này có lẽ
vì chỉ dân ta mới nhìn ra cái ngu của chó. Đó là một khi trở
thành chó nhà rồi thì chó không còn biết sống tự lực nữa mà
chỉ biết cúi đầu tuân lệnh chủ để trông chờ ân huệ chủ
ban cho, và lỡ như gặp nhằm tay chủ cà chớn chỉ thích đày đọa
hay hất hủi thì cũng chỉ biết cúi đầu nhẫn nhục để mà
sống.
Giai thoại danh nhân có
kể câu chuyện Ông Ích Khiêm, một vị đại thần khẳng khái dưới
triều vua Tự Đức, đã dùng chó để chửi xỏ đám quan lại hũ
nát. Trong khi bên ngoài thì đám Tây mũi lõ đem súng thần công
sang uy hiếp bờ cõi, bên trong thì giặc giã nổi lên khắp nơi, nhưng
triều đình ta thì toàn là một đám hũ nho chỉ biết bấu vào
mớ kinh điển của Thánh hiền đời xưa để bàn về chuyện kinh
bang tế thế thời Nghiêu Thuấn ở bên Tàu, hoặc cam lòng nhịn
nhục để giữ cái mâm đồng cho mình ngồi dai ăn hại, chứ
chẳng ai biết lo toan giúp vua canh tân đất nước. Quá ấm ức mà
không biết làm sao giải tỏa, cụ bèn sai gia nhân làm một bữa
thịt chó rồi mời tất cả các quan trong triều đến dự tiệc.
Sau khi các quan đã ngồi vào mâm khề khà ăn uống thấy ngon
miệng, mới hỏi cụ là các món này nấu bằng thịt gì mà ngon
thế thì cụ nhanh nhẩu đáp ngay: “Bẩm mâm trên mâm dưới gì cũng
đều là chó cả”.
Kể ra
những câu chuyện về chó như loại này thì có kể mãi vẫn không
hết, nên tôi cũng không muốn lải nhãi kiểu “chó nhai giẻ rách”
chỉ thêm mỏi miệng. Tuy nhiên có một chuyện tôi không thể nào
không nhắc đến là ngày còn nhỏ, có một lần tôi nghe lóm các
bậc trưởng thượng mạn đàm với nhau, có một vị đã buột
miệng than: vị trí địa lý của nước ta nằm vào cung Tuất,
tức là con chó, có nghĩa là phải thần phục một nước lớn nào
đó thì mới yên ổn, bằng không thì chỉ có tranh giành và loạn
lạc thôi. Thật tình mà nói, lúc bấy giờ tôi chẳng hiểu tí gì
về những vấn đề cao siêu thuộc về chính trị và Triết lý
Dịch, nhưng câu nói ấy bắt đầu từ đó luôn ám ảnh sự suy
nghĩ của tôi mỗi khi đọc lịch sử nước nhà.
Bỏ
qua mấy ngàn năm xưa cũ nếu không bị Tàu trực tiếp cai trị thì
cũng nằm trong cái vòng kiềm tỏa của các cụ con trời, cho đến
khi các cụ con trời vì cứ đắm chìm trong cái vũng vàng son quá
khứ mà không bắt kịp với thời đại để cho đám Bạch qủy Tây
phương có nhiều phù phép mới lạ hơn xử ép đành phải buông cái
xứ ta ra cho đám Bạch qủy thao túng. Chính vì thế mà dưới
thời vua Tự Đức, triều đình ta đã phải ký mấy cái Hoà ước
với Tây, và oái oăm thay, cái nào cũng nhằm vào năm con chó: đầu
tiên là Hiệp ước năm Nhâm Tuất (1862), mở đường cho Tây được
đặt chân vào đất này để làm mưa làm gió, và sau đó là Hoà
ước năm Giáp Tuất (1886), thì Tây nghiễm nhiên làm chủ đất nước
ta.
Sau gần một thế kỷ bị Tây cho ăn ba-toong, đá đít, kịp đến
năm con gà Ất Dậu dân ta theo trào lưu giải phóng các dân tộc
bị trị trên thế giới cũng vùng lên làm cách mạng, những tưởng
phen này Tây về nước hẳn và ta sẽ làm chủ ta, không ngờ lại
bị bác Cáo già nhảy ra tự xưng là cứu tinh của dân tộc lừa
cho một vố. Một số người trong dân ta sớm nhận ra cái cổ
của bác Cáo già có đeo cái tròng nối vào sợi dây xích đỏ
cột vào cái Cán Mác nên không chịu đi theo và tìm cách chống
lại làm cho bác Cáo già hoảng lên, bèn lập mưu ký với Tây hai cái
Hiệp định lập lờ vào năm con chó Bính Tuất, để cho bác Cáo
già đánh lận con đen, cõng đám rắn Tây trở lại cắn mấy con gà
quốc giùm bác, và tạo ra cái cảnh Tây Tàu bát nháo khiến cho
từ đó dân ta bị lâm vào mê hồn trận, tha hồ chia phe mà
choảng nhau chí choé.
Suốt
ba mươi năm do sự giật dây sau lưng của các đồng chí vĩ đại
hay hỗ trợ ra mặt của các đồng minh siêu cường, dân ta đã vô
tình bị mấy lãnh tụ cà chớn của ta lùa vào cái trò chơi “gà
nhà bôi mặt đá nhau”, máu chảy thành sông, xương chất thành núi.
Rồi một hôm, lại do sự thỏa hiệp giữa các đồng chí vĩ đại
lẫn đồng minh siêu cường với nhau, cả trường gà bỗng nhiên
ngừng hẳn trò đấu đá để cho dân ta ngơ ngác nhìn nhau kể từ
đây mang chung một cái tròng. Nhờ được làm chủ theo kiểu “ở
đời muôn sự của chung”, nhưng thụ hưởng thì lại dành riêng
theo tiêu chuẩn mà các đồng chí vĩ đại bên Nga bên Tàu vạch ra
khiến cho kiếp sống của dân ta hóa ra còn đen hơn cả cái mõm chó.
Ba
mươi năm tiếp theo, cái đất nước mà dân ta làm chủ nhưng dưới
sự lãnh đạo của mấy cái bàn tọa xúm quanh cái mâm đồng, cổ
đeo sợi dây xích đỏ nối liền với mấy cái lưỡi liềm lưỡi
búa lủng lẳng ở trên đầu, khiến cho dân ta muốn sống thì
chỉ có một cách là phải biết “chui”: từ ăn chui, ở chui, làm
chui, chửi chui... cho tới cả khi không thể nào sống nổi với
những cái chui như thế nữa đến nỗi phải bỏ xứ mà đi tìm đất
khác để sống thì cũng phải đi chui nốt.
Tục
ngữ có câu: “Chó chết hết chuyện”, nhưng trên đời này loài
chó có bao giờ chịu tuyệt chủng đâu, cho nên chuyện chó vẫn
cứ tiếp diễn hết thời này tới thời khác. Năm nay cái vòng
luẩn quẩn của mấy con giáp lại quay trở về với con chó và cũng
trùng tên với con chó Bính Tuất cách đây 60 năm. Tại cái đất nước
có bốn ngàn năm tự hào nhưng vẫn cứ mãi là cái quê nghèo này
cũng đang diễn ra nhiều màn nhốn nháo vì các đồng chí vĩ đại
lẫn đồng minh siêu cường bỗng nhiên cùng chú mục vào cái
mảnh đất trót nằm ở vị trí cung Tuất này. Nếu dân ta vẫn chưa
chịu thức tỉnh và không dám dứt bỏ cái thói quen sợ hãi và âm
thầm nhịn nhục để tạo ra một cơ hội đổi mới thực sự cho
đất nước thì dân ta vẫn cứ mãi mãi nằm trong mấy bàn tay thao
túng của các ông chủ không phải là dân ta.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment