Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Friday, February 8, 2013

Thân Phận một Loài Chó

Phiếm luận



Cái việc con chó cũng được các cụ xếnh xáng con trời xưa lôi cổ vào góp mặt với các con vật biểu tượng cho mười hai con giáp trong phép tính âm lịch thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì trên quả đất này chả có dân tộc nào xa lạ với con chó; và mặc dù các cụ đã đặt cho nó cái tên chữ là Tuất hẳn hoi, nhưng vì cái tiếng chó nghe ra vẫn quen thuộc hơn, cho nên năm Tuất cũng thường được dân ta gọi một cách nôm na là năm con chó. Có điều, mỗi khi nói về tuổi tác của những ai sinh vào năm này thì dân ta lại hay tránh gọi họ là tuổi chó mà phải nói là tuổi Tuất, bằng không thì sẽ xảy ra lắm chuyện rắc rối ngay.  

Không biết giữa loài người thuộc các chủng tộc khác nhau trên quả đất này có những nợ nần ân oán riêng đối với loài chó hay không mà đối với những dân tộc từng bị các cụ ta xưa coi là man di bạch qủy, hoặc lịch sử lập quốc của các đám dân ấy chỉ mới tính bằng vài thế kỷ, thì chó cũng có quyền sinh tồn như người, cho nên chó không hề bị kỳ thị trong sự đối xử, mà còn được coi như là bạn thiết của con người nên được nuôi nấng, chăm lo, bảo vệ, có khi còn hơn cả con người. Trái lại, ở những xứ mà người dân luôn mang trong mình cái truyền thống tự hào có một nền văn hiến lâu đời như ở xứ ta và xứ Tàu thì chó lại bị miệt thị và được coi là biểu tượng cho giới thấp hèn tột cùng trong xã hội, do đó mà thân phận con chó ở xứ ta hay xứ Tàu quả là bi đát và thê thảm. Câu tục ngữ: “Lên voi xuống chó” của ta đủ chứng minh cho điều đó. 

Dĩ nhiên loài chó cũng giống như bao loài gia súc khác, trước khi chịu ngoan ngoãn sống chung với con người dưới một mái nhà thì tổ tiên lâu đời của chúng cũng đã từng có một thời sống tự do ngang dọc trong thiên nhiên. Nhưng kể từ khi một số tổ tiên của chúng bị sa cơ vướng bẫy của loài người mà bị bắt, rồi được loài người dùng roi vọt, gậy gộc giáo dục cải tạo cho đến khi chịu chấp nhận sống chung hòa bình với loài người thì những thế hệ con cháu của chúng trở về sau được gọi là chó nhà, nhằm phân biệt với những loài chó vẫn còn giữ nguyên bản chất trời sinh và tiếp tục sống cuộc đời hoang dã như loài lang, loài sói, được gọi chung là chó rừng, phải di tản về những nơi rừng sâu núi thẳm để tránh xa xã hội loài người. 

Mặc dù gọi chung là chó nhà, nhưng vì tổ tiên của chúng lại do nhiều cội nguồn khác nhau và được tổ tiên loài người ở những vùng địa lý xa cách nhau dẫn về cưu mang đầu tiên mà chó nhà cũng có nhiều giống: từ những giống nhỏ bằng con mèo con, trông có vẻ hiền lành xinh xắn như con búp bê, cho tới những giống to bằng con cọp và dữ như sư tử, đều được người ta nuôi tùy theo sở thích hoặc mục đích riêng của mình. 

Dân ta cũng thích nuôi chó, nhưng giống chó mà dân ta quen nuôi từ lâu thì nhỏ thó và thường được gọi là chó ta, hầu phân biệt với các giống chó thường được gọi là chó Tây, chó bẹc-giê..., chỉ mới được du nhập về sau này và chỉ có một số người khá giả nào đó có nhu cầu hay điều kiện mới dám nuôi chứ không phổ cập trong toàn dân. Ngoài ra, cũng từ khi có thêm mấy giống chó ngoại lai này thì dân ta mới có một số người bắt chước Tây dùng những cái tên như Tô tô, Ki ki... để gọi chó cho dễ nghe hơn, còn trước kia hầu như dân ta chỉ cần nhìn vào sắc lông của chó mà phân biệt như: vện, vàng, đốm, bông, khoang, mực, vá v.v... và khi cần gọi thì chỉ việc chu mỏ, chậc lưỡi “ô ô... xuỵt xuỵt...” là cũng đủ cho chó hiểu và tuân theo rồi. 

Về hình dáng, bộ lông và màu sắc, đầu cổ dài hay ngắn thì tuy có khác nhau tùy theo giống chó, còn nhìn chung thì chó ta hay chó Tây, chó bẹc-giê hay chó gì đi nữa thì cũng đều thuộc loài động vật đi đứng bằng bốn chân giống như  bò, dê, heo, ngựa v.v..., nhưng loài chó có khác hơn mấy loài vật kia vì chó còn biết ngồi chứ không phải chỉ biết đứng và nằm. Có điều chó chỉ có thể ngồi theo kiểu chồm hổm, hai chân sau gập lại còn hai chân trước chống thẳng đỡ lấy phần trước của thân thể để cho đầu và cổ nghển cao lên, khiến cho chó ngồi lại cao hơn chó đứng. Tuy thế, cái bộ dạng mấy con chó ta khi ngồi dưới đất nghển cổ lên nhìn chủ đang ăn trên mâm thì trông lại vô cùng thiểu não, vì thế mà dân ta mới hay dùng câu “chó ngồi chực xương” để xỏ xiên những kẻ hay chầu rìa mấy người đang có quyền có thế hòng xin chút ân huệ. Ngoài ra, cũng vì cái kiểu ngồi độc đáo đó mà khi cơ may đưa đến cho “chó nhảy lên mâm đồng” hay “chó ngồi bàn độc” đi nữa, chân tướng chó vẫn không bao giờ dấu được. 

Kể ra mặt chó đâu đến nỗi xấu xí và nhăn nhó như mặt khỉ, ngoại trừ cái mõm dù là thuộc giống nào đi nữa thì cũng đều có màu thâm đen, khiến cho dân ta có lẽ thường xuyên bị ám ảnh về những hình ảnh tăm tối của cuộc đời nên mới đem cái phần u uẩn và sâu kín nhất nơi con người ra mà so sánh với cái mõm chó như trong mấy câu ca dao rất gợi hình sau đây: 
 
Sáng trăng suông em ngỡ tối trời
Em ngồi em để cái sự đời em ra
Sự đời bằng chiếc lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời. 

Mặc dù mõm chó đen, nhưng bộ vó của chó cũng nhanh và khoẻ không kém gì ngựa, cho nên những dân tộc sống ở các vùng mà mặt đất quanh năm chỉ có băng giá phủ đầy, thường dùng chó để kéo xe trượt băng, một phương tiện di chuyển ở những nơi không có đường sá. Những dân tộc vốn quen sống về nghề chăn nuôi hoặc săn bắn thì chó được nuôi và huấn luyện để chăn cừu, hoặc giúp các tay thợ săn truy lùng các con mồi mang về nộp cho chủ. Tuy nhiên cũng có một số người không phân biệt quốc tịch nhưng có chung máu mê cờ bạc, thì lại xoay ra khai thác cái khả năng chạy của chó để biến thành một trò chơi cá độ qua hình thức đua chó, một môn đua cũng giống như đua ngựa nhưng có lẽ vì không quy mô và hấp dẫn bằng đua ngựa nên không được thịnh hành lắm. 

Chó không thể dùng tứ chi để leo trèo như mèo, vì vậy mà khi các cụ ta chưa biết xài tủ lạnh thì mỗi khi cần để dành đồ ăn, chỉ cần áp dụng cái phương pháp: “chó treo, mèo đậy”, có nghĩa là treo đồ ăn lên cao để chó không thể nào chồm tới. Ngoài ra chó cũng không thể xử dụng hai chân trước làm tay để nắm bắt vật này vật nọ như khỉ, nhưng nhờ mồm của chó rất dài và rộng với bộ quai hàm rất khoẻ nên chó cũng có thể ngoạm bằng mồm rồi tha đi, thay cho bưng bê, coi như cũng là một cách dùng “mồm miệng đỡ chân tay” theo kiểu của chó. 

Có một điều lạ là chó và mèo đều sống chung với chủ dưới một mái nhà, tuy vậy, hai con vật này lại tỏ ra không bao giờ hòa thuận với nhau, cho nên dân ta mới bảo “gấu ó như chó với mèo”, và khi hai con vật này có làm gì lầm lỗi với người thì dân ta vẫn thích bênh mèo hơn và lôi chó ra mà trừng phạt như câu tục ngữ: “mèo già ăn vụng, chó vá phải đòn”. Nhưng ngược lại, không biết có phải vì các cụ ta luôn luôn bị cái nghèo truyền kiếp ám ảnh hay không mà khi nghe mèo kêu “ngoeo ngoeo” thì các cụ liền liên tưởng đến cái “nghèo” nên ngao ngán, còn chó sủa “gâu gâu” nghe như  “giàu” làm cho các cụ tưởng chừng như  đời sắp sửa được lên hương vậy, cho nên các cụ cũng đâm ra mê tín: “mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”. 

Phải nói là chó nổi danh nhờ cái mồm vì ngoài cái việc dùng mồm để ăn uống, chó còn biết dùng mồm sủa oang oang nhằm áp đảo tinh thần đối phương, và dùng mồm làm phương tiện tấn công hay tự vệ như câu tục ngữ: “mồm chó vó ngựa”, vì chó chỉ biết cắn chứ không biết đấm đá. Với hai hàm răng nhơn nhởn có bốn cái răng nanh dài và nhọn, chó có thể cắn xé đối thủ ra thành từng mảnh. Chính vì thế mà trong những cuộc ẩu đả, nếu có một kẻ nào đó bất thần xuất độc chiêu dùng miệng cắn địch thủ như mấy bà đánh ghen đôi khi vẫn áp dụng thì người ta gọi đó là môn võ chó, hay là ngón cẩu quyền cho ra vẻ ngôn từ con nhà võ hơn. 

Chó rất hay sủa. Mỗi khi nghe tiếng động hay thấy có điều gì khác lạ bất thường xảy ra quanh mình là chó cất tiếng sủa oang oang cho nên ca dao mới có câu: 
 
Chó nào chó sủa lỗ không
Chẳng thằng ăn trộm thì ông ăn mày 

Thường thì “chó sủa chó không cắn” như câu tục ngữ đã nói, hoặc ngạn ngữ Tây phương cũng có câu: “Chó sủa mặc chó, đoàn lữ hành cứ đi”, ngoại trừ có vài con chó thuộc loại lì lợm mới không thèm sủa mà chỉ thình lình nhảy xổ ra táp cho một vố thì mới thật hết đường đỡ.  Cái lý do chó hay sủa trước khi nhào vào cắn là tại vì chó cũng rất sợ người, cho nên chó cần phải dựa hơi chủ mới dám thị oai như câu tục ngữ : “Gà cậy gần chuồng, chó cậy gần nhà”. Chó chỉ hách xì xằng đối với kẻ yếu bóng vía, còn gặp người sang hay mấy tay sừng sỏ thứ thiệt thì chó chỉ biết cụp đuôi chạy. Riêng đối với chủ thì chó luôn luôn sợ hãi một phép vì nếu không có chủ nuôi thì chó nhà sẽ trở thành chó hoang ngay, tối ngày lang thang, lấm la lấm lét, và bị coi là chó đói, chó ghẻ. Còn người mà sợ chó chẳng qua vì ngán chủ của chó chứ không phải chó, cho nên tục ngữ cũng có câu “Đánh chó kiêng mặt chủ nhà”. 

Khi ra đường chó có thói quen hay dừng lại chỗ này chỗ nọ hửi hửi, rồi đái lắt nhắt vào đó vài giọt như để đánh dấu chỗ cần ghi nhớ. Cái lý do tại sao chó lại phải ghếch một chân sau lên mới đái được thì tôi không rõ, nhưng ở đời cũng có lắm kẻ hình như không bao giờ nghĩ ra được chuyện gì hay hơn để làm nên chỉ biết xun xoe vào việc của người khác để làm những chuyện rất thừa thãi nên người ta mới bảo là người ấy chỉ “cầm cu cho chó đái”. 

Nhờ khứu giác của chó rất nhạy nên chó có thể đánh hơi và phân biệt mùi một cách rất chính xác cho nên ngành Cảnh sát hay Quân đội, người ta thường dùng chó để khám phá hàng quốc cấm, săn đuổi kẻ tội phạm, truy lùng địch quân, v.v... Loại chó được huấn luyện để làm những công tác như thế này được gọi là cảnh khuyển hay quân khuyển, được nuôi nấng cẩn thận và có người hầu hạ chu đáo. Không những thế, những con chó này còn được mang cấp bậc, hưởng lương theo tiêu chuẩn quân nhân, và mỗi khi lập được kỳ công thì cũng được tưởng thưởng huy chương, đeo toòng teng nơi cổ cho người biết danh, chỉ khác người ở chỗ chó không được đóng lên mình bộ quân phục, ngay cả khi được dẫn đi trong hàng quân diễn hành trước khán đài vào những dịp lễ trọng đại. 

Ngoài ra, cũng giống như hầu hết các loài thú khác, chó cũng có đuôi, có điều cái đuôi chó đóng vai trò gì trong việc kiện toàn cấu trúc về mặt cơ thể học và thẩm mỹ học thì tôi không rõ, nhưng đứng trên bình diện tâm lý học mà nhận xét thì cái đuôi chó có thể coi như một cơ phận bên ngoài để chó bộc lộ cái nội tâm của mình, cho nên chỉ cần nhìn cái đuôi của chó là biết ngay nỗi niềm của chó. Chẳng hạn khi tỏ vẻ vui mừng hay muốn ve vãn gì đó thì cái đuôi vẫy vẫy, khi sừng sộ ra oai thì đuôi vểnh lên trời, còn khi cảm thấy lo âu sợ sệt thì cái đuôi lại cụp xuống trông thật thảm hại. 

Chó cũng đẻ con nhưng chó con lúc mới lọt lòng mẹ hãy còn mù vì hai mi mắt bị khép chặt vào nhau. Phải ba tuần sau thì chó con mới bắt đầu có thể mở mi mắt ra để nhìn thấy thế giới quanh mình và cũng là để nhìn cái kiếp chó của mình trong cuộc đời này. Để bảo vệ con mình trong thời gian còn non nớt mù lòa này, chó mẹ thường tỏ ra rất dữ mỗi khi có người hay vật lạ đến gần ổ con mình cho nên thành ngữ mới có câu: “dữ như chó cái mới đẻ”. 

Vào mùa nóng bức, chó có thể bị mắc bệnh dại. Bệnh do một loại siêu vi khuẩn có khả năng phá hủy hệ thần kinh của chó gây ra. Khi bệnh đã biểu hiện ra bên ngoài thì chó bắt đầu trở thành điên cuồng, bạ ai cũng cắn, ngay cả chủ của mình, và sau đó là lăn đùng ra chết. Người bị chó dại cắn cũng sẽ lây nhiễm loại vi khuẩn dại này mà trở nên điên cuồng, sùi bọt mồm bọt mép rồi chết như chó nếu không được chủng ngừa kịp thời. Ngày xưa người ta rất sợ chứng bệnh này, nhưng kể từ khi có ông Tây Bát Tờ khám phá ra loại thuốc chủng ngừa để hóa giải sự hoành hành của loại vi khuẩn này thì loài người mới không còn sợ hãi như trước. 

Vào cái thủa xa xưa phải vất vả tự mưu sinh trong thiên nhiên thì có lẽ chó chỉ biết ăn thịt, cho nên chó rất thích gặm xương, nhưng từ khi được loài người nuôi cho ăn thì chó đành phải chịu cảnh chủ cho gì ăn nấy. Ở các xứ mà dân chúng đã từ lâu quen thuộc với các loại thực phẩm đóng hộp thì để phục vụ cho chó có miếng ăn ngon, người ta cũng đã phải phát triển luôn cả ngành chế biến thực phẩm đóng hộp dành cho chó, còn như ở xứ ta hay xứ Tàu, nơi mà đa số người dân chỉ quen “ăn bữa nào xào bữa nấy” thì hầu như chó chỉ còn trông cậy hoàn toàn vào sự độ lượng của chủ. Gặp chủ khá giả thì chó còn được hưởng vài mẩu xương thừa đã bị chủ gặm nhẵn hết thịt. Còn như rơi vào tay chủ nhà nghèo hay keo kiệt biết vắt chày ra nước thì chó chỉ có nước ăn cứt, vì ngoài cái mục đích nuôi chó để giữ nhà (chứ không phải như nuôi khỉ chỉ tổ dòm nhà), dân ta còn có tài dạy cho chó kiêm luôn cái việc dọn vệ sinh cho con nít. Việc này mới đầu  có lẽ chỉ dành riêng cho chó, tuy nhiên nhiều khi không có chó, dân ta bèn ép luôn cả mèo làm thay như câu tục ngữ: “Không có chó bắt mèo ăn cứt”. 

Tôi tin chắc rằng bẩm sinh chó ta cũng không hề biết ăn cái món bã từ bộ máy tiêu hóa của con người thải ra này, nhưng qua sự giáo dục cải tạo của con người, chó đành phải chấp nhận để sống. Còn dân ta thì có lẽ vì biết áp dụng cái định luật phản xạ có điều kiện này từ hàng ngàn năm xưa, trước khi nhà tâm lý học Bá Lốp người Nga khám phá ra, nên cứ tưởng chừng như đó là bản chất của loài chó, để rồi tin rằng chó thì không bao giờ chê cứt cũng như mèo thì khoái mỡ. Chẳng thế mà trong ca dao trữ  tình cũng có những câu ví von rất hiện thực: 
 
Em như cục cứt trôi sông
Anh như con chó ngồi trông trên bờ. 

Cái lý do khiến cho chó bị buộc phải ăn cứt nghe ra cũng rất ngộ nghĩnh. Số là các cụ xưa đã dựa vào nền luân lý của thánh hiền đặt ra cho con người để phê phán loài chó, cho nên khi nhìn thấy loài chó cứ nhởn nhơ làm tình bừa bãi ngoài đường ngoài sá rất mất thuần phong mỹ tục, lại còn không biết phân biệt liên hệ huyết thống, rất trái với luân thường đạo lý, cho nên các cụ mới kết tội chó là loài vô đạo đức.  Từ cái bản án bất thành văn nhưng lại vô cùng hiệu lực ấy khiến cho chó không những bị khinh bỉ mà còn bị trừng phạt cho xứng tội. 

Ngày xưa ở bên Tàu người ta không cho phép chó ra vào bằng cổng thành chung với người mà bắt chó phải chui qua cái lỗ nhỏ khoét ở chân tường. Từ đó mà có thành ngữ “chui lỗ chó” để tỏ ý khinh bỉ những kẻ phải luồn lọt mới được ra vào một nơi nào đó, hoặc để chỉ mấy tay chuyên làm nghề đào tường khoét vách để ăn trộm. Cũng vì chó bị liêt vào hàng đê tiện mà các cụ bảo “chơi với chó, chó liếm mặt” thì còn gì là sĩ diện con người. Các cụ  còn dùng những cụm từ như: đồ chó má, cái quân chó đẻ v.v... để mắng chửi kẻ khác khi coi kẻ đó không còn là đồng đẳng với mình nữa. Trường hợp bị người khác coi mình như chó mà không làm sao trả miếng lại ngay trong cuộc đời này thì xoay ra nguyền rủa cho kẻ đó kiếp sau phải đầu thai làm con chó để cho mình có cơ hội đày đọa lại. Không những thế, ngay cả ma qủy cũng được các cụ gán cho cái tính chê chó, cho nên người hiếm muộn hay sinh con mà khó nuôi, thường kiêng gọi con mình bằng cái tên đẹp đẽ mà chỉ gọi bằng cái từ xấu xí như “thằng chó con” để cho ma qủy không thèm để ý rình bắt. 

Chính vì chó là con vật bị bạc đãi như thế đó mà thời các bậc ông cha ta mới bị nhà nước bảo hộ Phú lãng sa bắt phải “vứt bút lông đi, giắt bút chì” làm nảy sinh một lớp người bắt đầu học theo cách kiếm sống bằng nghề viết văn, làm báo bằng chữ quốc ngữ, nhưng khổ nỗi cái món văn chương chữ nghĩa ở nước ta theo lời cụ Tản Đà thì lúc nào cũng rẻ như bèo cho nên đa số nhà văn nhà báo đều đói rách khiến cho Nguyễn Vỹ, một nhà văn kiêm nhà báo thời tiền chiến, một hôm nhân lúc rượu đã ngà ngà, bèn phán cho cụ Tản Đà nghe một câu thật bất hủ đến nỗi được ghi ngay vào văn học sử nước ta: “Nhà văn An nam khổ hơn chó”. 

Phải nói là con chó ở xứ ta không những bị đày đọa khi còn sống mà ngay cả khi chết cũng rắc rối. Số là dân ta có thói quen thấy con gì nhúc nhích đều cho là hẩu xực được cả, cho nên những con vật trót được ưu ái liệt vào hàng gia súc cung cấp thịt cho người như trâu, bò, dê, lợn,gà... thì cứ thản nhiên mà hưởng ánh mặt trời chờ ngày được chủ đem ra thọc huyết: 
 
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi... 

Trái lại, con chó từ khi được loài người đem về nuôi và được cải tạo để trở thành chó nhà thì lại trót tỏ ra rất được việc và có nghĩa với chủ nên được chủ khoan hồng không kê tên vào bản án những con vật bị xẻ thịt. Chính vì thế mà chó mới phải có màn khóc lóc năn nỉ: 
 
Con chó khóc đứng khóc ngồi,
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
 

Dĩ  nhiên không phải là con chó khóc lóc năn nỉ xin người mua cho đồng riềng để nó ngậm cho đỡ thúi mồm khi phải ăn cứt, mà là để cho người gia vị vào thịt của nó cho át đi cái mùi chó khi biến chế thành món ăn, vì thịt chó chỉ được một số đại ca thuộc các dân tộc có chung một nền văn hiến lâu đời vốn không bao giờ dám phí của trời mới biết dùng đến thôi. Có điều vì trót bắt chó phải ăn cứt cho nên khi làm thịt chó, người ta thường gọi trại ra là thịt “cầy” hay còn gọi là “nai đồng quê” để nghe cho có vẻ thơm ra. Một vài đại ca có gốc “Háng rộng” còn dùng hai chữ “mộc tồn” để gọi, cho nên khi muốn cho người “chậm tiêu” cũng hiểu cần phải diễn nôm dài giòng ra là “mộc tồn” tức là “cây còn”, nói lái lại là thành ra con cầy vậy. 

Kể ra thì có nhiều người nghe nói đến thịt chó là tự nhiên muốn ói, nhưng quý vị nào đã từng nếm qua mà không bị cơn dị ứng của bao tử hành hạ thì đều quay ra ca tụng thịt chó vừa thơm vừa lành, vì các vị ấy bảo khi nhai nuốt xong miếng thịt chó mà lỡ còn chút sớ nào dính sót lại trong kẹt răng, ba ngày sau xỉa ra vẫn không nghe mùi thúi như các loại thịt khác. Riêng mấy tay hảo hán bên Tàu thì còn siêu đến độ gọi hẳn món thịt chó là “hương nhục”, có nghĩa là thịt thơm. Còn ở xứ ta thì những món như tiết canh chó, dồi chó, rựa mận v.v... xưa nay vẫn được dân ái mộ sắp vào hàng quốc túy, và có kẻ còn oang oang tuyên bố: “sống ở dương gian ăn miếng dồi chó” như là cứu cánh của cuộc đời. Có một điều là hình như xưa nay vẫn chưa có ai dám dùng thịt chó để cúng kiếng cả. 

Thịt chó ngon phải là chó còn trong trắng chưa nếm mùi đời, cho nên dân mộ điệu mới đặt cho cái tên là cầy tơ. Từ đó đẻ thêm ra cái tiếng lóng “cờ tây” và câu chuyện vui thời Việt Minh kháng chiến. Nhằm bảo vệ bí mật cho mấy ngài cán bộ, mấy ông du kích ban đêm đi rình mò mà không bị nhân dân phát giác vì tiếng chó sủa nên nhà nước ta bèn cho mở ra chiến dịch giết chó, thế là các ông du kích có thêm công tác và tha hồ rủ nhau lập thành tích “hạ cờ tây”, tức là đi lùng bắt mấy con cầy tơ về làm thịt, vừa no nê ấm bụng vừa khoẻ tấm thân, chứ không phải phơi xương đổ máu như những anh chàng bộ đội xung phong đánh đồn. 

Ngoài cái chuyện bị khinh bỉ vì thiếu đạo đức, chó còn bị dân ta sắp hạng chung với bò, heo về cái mặt ngu cho nên kho thành ngữ mới có thêm mấy cụm từ: ngu như bò, ngu như heo, ngu như chó... Kể ra hệ số thông minh của loài chó đâu đến nỗi kém so với các loài vật khác, bằng cớ là người ta đã dạy cho chó làm được rất nhiều việc: từ tay sai vặt, giữ nhà, cho tới làm tài tử đóng phim, nhưng dân ta thì nhất định cho chó là ngu. Điều này có lẽ vì chỉ dân ta mới nhìn ra cái ngu của chó. Đó là một khi trở thành chó nhà rồi thì chó không còn biết sống tự lực nữa mà chỉ biết cúi đầu tuân lệnh chủ để trông chờ ân huệ chủ ban cho, và lỡ như gặp nhằm tay chủ cà chớn chỉ thích đày đọa hay hất hủi thì cũng chỉ biết cúi đầu nhẫn nhục để mà sống. 

Giai thoại danh nhân có kể câu chuyện Ông Ích Khiêm, một vị đại thần khẳng khái dưới triều vua Tự Đức, đã dùng chó để chửi xỏ đám quan lại hũ nát. Trong khi bên ngoài thì đám Tây mũi lõ đem súng thần công sang uy hiếp bờ cõi, bên trong thì giặc giã nổi lên khắp nơi, nhưng triều đình ta thì toàn là một đám hũ nho chỉ biết bấu vào mớ kinh điển của Thánh hiền đời xưa để bàn về chuyện kinh bang tế thế thời Nghiêu Thuấn ở bên Tàu, hoặc cam lòng nhịn nhục để giữ cái mâm đồng cho mình ngồi dai ăn hại, chứ chẳng ai biết lo toan giúp vua canh tân đất nước. Quá ấm ức mà không biết làm sao giải tỏa, cụ bèn sai gia nhân làm một bữa thịt chó rồi mời tất cả các quan trong triều đến dự tiệc. Sau khi các quan đã ngồi vào mâm khề khà ăn uống thấy ngon miệng, mới hỏi cụ là các món này nấu bằng thịt gì mà ngon thế thì cụ nhanh nhẩu đáp ngay: “Bẩm mâm trên mâm dưới gì cũng đều là chó cả”. 

Kể ra những câu chuyện về chó như loại này thì có kể mãi vẫn không hết, nên tôi cũng không muốn lải nhãi kiểu “chó nhai giẻ rách” chỉ thêm mỏi miệng. Tuy nhiên có một chuyện tôi không thể nào không nhắc đến là ngày còn nhỏ, có một lần tôi nghe lóm các bậc trưởng thượng mạn đàm với nhau, có một vị đã buột miệng than: vị trí địa lý của nước ta nằm vào cung Tuất, tức là con chó, có nghĩa là phải thần phục một nước lớn nào đó thì mới yên ổn, bằng không thì chỉ có tranh giành và loạn lạc thôi. Thật tình mà nói, lúc bấy giờ tôi chẳng hiểu tí gì về những vấn đề cao siêu thuộc về chính trị và Triết lý Dịch, nhưng câu nói ấy bắt đầu từ đó luôn ám ảnh sự suy nghĩ của tôi mỗi khi đọc lịch sử  nước nhà. 

Bỏ qua mấy ngàn năm xưa cũ nếu không bị Tàu trực tiếp cai trị thì cũng nằm trong cái vòng kiềm tỏa của các cụ con trời, cho đến khi các cụ con trời vì cứ đắm chìm trong cái vũng vàng son quá khứ mà không bắt kịp với thời đại để cho đám Bạch qủy Tây phương có nhiều phù phép mới lạ hơn xử ép đành phải buông cái xứ ta ra cho đám Bạch qủy thao túng. Chính vì thế mà dưới thời vua Tự Đức, triều đình ta đã phải ký mấy cái Hoà ước với Tây, và oái oăm thay, cái nào cũng nhằm vào năm con chó: đầu tiên là Hiệp ước năm Nhâm Tuất (1862), mở đường cho Tây được đặt chân vào đất này để làm mưa làm gió, và sau đó là Hoà ước năm Giáp Tuất (1886), thì Tây nghiễm nhiên làm chủ đất nước ta. 

Sau gần một thế kỷ bị Tây cho ăn ba-toong, đá đít, kịp đến năm con gà Ất Dậu dân ta theo trào lưu giải phóng các dân tộc bị trị trên thế giới cũng vùng lên làm cách mạng, những tưởng phen này Tây về nước hẳn và ta sẽ làm chủ ta, không ngờ lại bị bác Cáo già nhảy ra tự xưng là cứu tinh của dân tộc lừa cho một vố. Một số người trong dân ta sớm nhận ra cái cổ của bác Cáo già có đeo cái tròng nối vào sợi dây xích đỏ cột vào cái Cán Mác nên không chịu đi theo và tìm cách chống lại làm cho bác Cáo già hoảng lên, bèn lập mưu ký với Tây hai cái Hiệp định lập lờ vào năm con chó Bính Tuất, để cho bác Cáo già đánh lận con đen, cõng đám rắn Tây trở lại cắn mấy con gà quốc giùm bác, và tạo ra cái cảnh Tây Tàu bát nháo khiến cho từ đó dân ta bị lâm vào mê hồn trận, tha hồ chia phe mà choảng nhau chí choé. 

Suốt ba mươi năm do sự giật dây sau lưng của các đồng chí vĩ đại hay hỗ trợ ra mặt của các đồng minh siêu cường, dân ta đã vô tình bị mấy lãnh tụ cà chớn của ta lùa vào cái trò chơi “gà nhà bôi mặt đá nhau”, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Rồi một hôm, lại do sự thỏa hiệp giữa các đồng chí vĩ đại lẫn đồng minh siêu cường với nhau, cả trường gà bỗng nhiên ngừng hẳn trò đấu đá để cho dân ta ngơ ngác nhìn nhau kể từ đây mang chung một cái tròng. Nhờ được làm chủ theo kiểu “ở đời muôn sự của chung”, nhưng thụ hưởng thì lại dành riêng theo tiêu chuẩn mà các đồng chí vĩ đại bên Nga bên Tàu vạch ra khiến cho kiếp sống của dân ta hóa ra còn đen hơn cả cái mõm chó. 

Ba mươi năm tiếp theo, cái đất nước mà dân ta làm chủ nhưng dưới sự lãnh đạo của mấy cái bàn tọa xúm quanh cái mâm đồng, cổ đeo sợi dây xích đỏ nối liền với mấy cái lưỡi liềm lưỡi búa lủng lẳng ở trên đầu, khiến cho dân ta muốn sống thì chỉ có một cách là phải biết “chui”: từ ăn chui, ở chui, làm chui, chửi chui... cho tới cả khi không thể nào sống nổi với những cái chui như thế nữa đến nỗi phải bỏ xứ mà đi tìm đất khác để sống thì cũng phải đi chui nốt. 

Tục ngữ có câu: “Chó chết hết chuyện”, nhưng trên đời này loài chó có bao giờ chịu tuyệt chủng đâu, cho nên chuyện chó vẫn cứ tiếp diễn hết thời này tới thời khác. Năm nay cái vòng luẩn quẩn của mấy con giáp lại quay trở về với con chó và cũng trùng tên với con chó Bính Tuất cách đây 60 năm. Tại cái đất nước có bốn ngàn năm tự hào nhưng vẫn cứ mãi là cái quê nghèo này cũng đang diễn ra nhiều màn nhốn nháo vì các đồng chí vĩ đại lẫn đồng minh siêu cường bỗng nhiên cùng chú mục vào cái mảnh đất trót nằm ở vị trí cung Tuất này. Nếu dân ta vẫn chưa chịu thức tỉnh và không dám dứt bỏ cái thói quen sợ hãi và âm thầm nhịn nhục để tạo ra một cơ hội đổi mới thực sự cho đất nước thì dân ta vẫn cứ mãi mãi nằm trong mấy bàn tay thao túng của các ông chủ không phải là dân ta.

ĐOÀN VĂN KHANH


No comments:

Post a Comment