Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Thursday, February 7, 2013

Người Quân Tử

Tùy bút

Riêng tặng các bạn CVA Tam Nhị C 57-59
và để tưởng nhớ các bạn đã vĩnh viễn ra đi
Ðoàn Văn Khanh

Thật ra khi dùng ba chữ "người quân tử" cho đầu đề bài viết này, tôi hoàn toàn không có ý khảo luận về mẫu người lý tưởng của Nho giáo mà hàng ngàn năm qua đã ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống tinh thần của ông cha ta, nhưng chỉ nhằm gợi lại một kỷ niệm về "người quân tử" như cái biệt danh do các bạn lớp Tam Nhị C Chu văn An niên khóa 57-59 đã dùng để gọi tôi. Dĩ nhiên là khi các bạn cùng lớp tặng cho tôi cái biệt danh này không phải vì tôi có những đức tính của một người quân tử; chẳng qua là do anh chàng Quát, ủy viên trật tự nhưng cũng là vua quậy của lớp, nhân một hôm thấy tôi đứng thộn mặt trước vị giáo sư Anh văn vì đến lượt phải thuyết trình cho buổi thảo luận định kỳ mà tôi vẫn không soạn được chữ nào để nói, cho nên đã ngẫu hứng gọi tôi bằng cái đề tài của bài thuyết trình mà tôi phải làm để trêu chọc, và cả lớp đã vui vẻ hùa theo để gọi tôi bằng cái tên này từ đó. 

Năm tôi vào Ðệ nhị cấp cũng là năm có sự thay đổi trong chương trình giáo dục. Trung học đệ nhị cấp được phân làm 4 ban A, B, C và D. Ban A chuyên về Khoa học Tự nhiên, ban B chuyên về Toán, ban C và D chuyên về Văn nhưng ban C dạy sinh ngữ còn ban D học sinh phải học cổ ngữ. Tuy chia thành bốn ban nhưng ban D hầu như chỉ để dành cho mấy nhà tu có học La tinh hay Hán tự chứ thực tế ngoài đời chả ai học nên coi như chỉ còn ba. Học sinh bắt đầu lớp đệ tam (tức lớp 10) bắt buộc phải chọn một trong ba ban đó. Theo sự phân chia này thì ban A và B sẽ có nhiều ưu thế hơn sau này khi theo vào đại học còn ban C và D sẽ bị hạn chế trong một số ngành mà thôi. Do đó đa số học sinh đều chọn hoặc ban A hoặc ban B để rộng đường thăng tiến, còn ban C chỉ có trường công lập mới có một lớp cho đủ bộ với đời. Tôi đã tự nguyện chọn ban C là cái ban ế nhất vì các bậc phụ huynhï của thế kỷ 20 chả còn ai muốn cho con cháu mình theo đuổi cái nghiệp "dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm", mà chỉ mơ ước con cháu mình phải là kỹ sư hay bác sĩ.
 
Thật tình mà nói, mặc dù văn chẳng giỏi gì, còn tiếng Anh và tiếng Pháp thì vốn là học sinh vùng kháng chiến trở về tất nhiên nói đến hai môn này kể như là phải ăn đong đến toát mồ hôi. Tuy thế tôi vẫn chọn ban C chỉ vì cảm thấy mình không thích phải học gạo những bài vạn vật khô khan hay tối ngày lo vật lộn với những phương trình và con số trừu tượng của môn toán. Chỉ có ban C mới để cho mình yên tâm thả hồn mơ mộng vào những áng văn chương. Phải rồi! Học văn chương thì tha hồ đọc thơ xem truyện, nhưng còn cái chuyện phải viết khảo luận hay thuyết trình văn học nhất là bằng ngoại ngữ thì lại là một vấn đề tôi không nghĩ tới khi chọn ban này.
 
Vào thời ấy, nền giáo dục tại Miền Nam hãy còn trong giai đoạn chuyển tiếp từ hệ thống giáo dục thuộc địa cũ qua một nền giáo dục quốc gia độc lập nên học sinh trung học chương trình Việt còn phải học cả hai sinh ngữ Pháp và Anh song song. Do ảnh hưởng của văn hoá Pháp còn mạnh nên Anh văn vẫn còn được coi là sinh ngữ phụ, và được giảng dạy theo bộ sách giáo khoa Anglais vivant của chương trình Pháp, do đó còn mang nặng tính cách từ chương. Vị giáo sư Anh văn bấy giờ là cụ Lộc, có lẽ tuy dạy văn hóa nước người nhưng vẫn thiết tha với văn hóa cội nguồn nên khi căn cứ vào các bài học trong sách để chọn ra một số đề tài cho học sinh làm bài thảo luận hàng tháng, đến bài nói về gentleman của người Anh, cụ đã cao hứng ra cái đề tài thảo luận là so sánh người gentleman của Anh với người quân tử ở Ðông phương. Không hiểu số con rệp dun dủi sao đó mà khi nhắm vào một số học sinh được coi là khá trong lớp để phân phát các đề tài thuyết trình, tôi cũng được cụ Lộc để mắt tới và được cụ chỉ định cho soạn cái đề tài so sánh hai mẫu người quân tử một Tây một Tàu này. Thế là nỗi lo lắng bắt đầu ám ảnh tôi từ đó.
 
Nếu phải thuyết trình một đề tài có tính cách thông thường của cuộc sống như các bài học khác thì cũng được đi, cứ dựa theo bài học mà cà kê dê ngỗng cũng xong. Ðằng này cái đề tài quái ác lại liên quan đến lãnh vực tư tưởng Ðông phương với những từ ngữ diễn tả các ý tưởng triết học tôi chưa hề được học và mặc dù đã cố công tìm hết mấy quyển tự điển Việt-Anh để tra cứu cũng không hề có. Tôi theo học văn chương để thả hồn vào những cảm tình lãng mạn chứ đâu phải để suy luận triết lý xa vời.
 
Tôi cũng không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại không chịu trình bày những trở ngại ấy cho giáo sư biết để được hướng dẫn hay thổ lộ nỗi khó khăn và lo lắng cho bạn bè để được giúp đỡ mà cứ âm thầm ôm lấy một mình và tự xoay sở. Suốt mấy tuần ăn không ngon ngủ không yên vì không đào đâu ra chữ, tôi đành quay về nguồn theo cách của mình. Không thể thuyết lý về quân tử Tây và quân tử Tàu thì thôi đành học theo cách của người quân tử ta là "đến hẹn lại khất" cho đến hôm tôi không còn khất vào đâu được nữa đành đứng trân người ấp a ấp úng lúng búng trong miệng như một anh chàng quân tử cố cùng làm cho cả lớp cười ồ và thân ái tặng cho cái biệt danh này.
 
Dĩ nhiên là lúc bấy giờ tôi không hài lòng với cái biệt danh này tí nào vì hình như nó chỉ gợi lên cho tôi cái cảm nghĩ của một sự thua kém và thất bại. Người quân tử là tôi đó không phải một con người tiêu biểu cho mẫu người lý tưởng với những đức tính cao qúy mà chỉ là một liên tưởng của "người quân tử ăn chẳng cầu no" hoặc là "quân tử nói đi nói lại" vẫn thường được xem như là hai hình ảnh trào lộng của một người chật vật về kinh tế hay quẫn bách về tinh thần.
 
Tuổi học trò bao giờ cũng thích những trò trêu chọc, thường là vui chơi chứ không phải do ác ý. Cái dáng người gầy gò như một biểu tượng còn sót lại của nạn đói năm Aát Dậu và thái độ dè dặt của tôi từ những ngày đầu mới gia nhập gia đình Chu Văn An hình như cũng đã được các bạn cùng lớp chú ý, và với bản tính vui nhộn của những tâm hồn học trò vô tư, có lẽ mỗi người cũng muốn gọi tôi bằng một cái tên nào đó nhưng chưa tìm ra thì chợt cái tên "người quân tử" đến một cách ngẫu nhiên, nhưng lại hợp tình hợp cảnh một cách rất lý thú này đã đánh đúng tâm ý của mọi người nên cả lớp đã nhanh chóng chấp nhận một cách thoải mái.
 
Vốn trải qua suốt một thời niên thiếu ở vùng kháng chiến, đời học sinh của tôi là một chuỗi dài của những sự chắp vá. Hoàn cảnh chiến tranh và cuộc sống khó khăn của người dân tản cư khiến cho việc học hành của tôi cũng thật là long đong vất vả. Nào là nay theo học trường này, vài tháng sau qua học một trường khác; nào là trường sở bị phá hoại theo chính sách tiêu thổ kháng chiến nên lớp học nhiều khi chỉ là chái nhà dân hay một cái chòi lá đơn sơ ẩn trong vườn cây rậm rạp; nào là nạn lo sợ máy bay Pháp oanh kích khiến cho lớp học nhiều lúc phải tổ chức về ban đêm. Chính sách giáo dục thì thay đổi thường xuyên theo đà biến chuyển của tình hình chính trị trên thế giới và chính sách thể hiện lập trường vô sản chuyên chính của nhà cầm quyền. Rồi vì hoàn cảnh gia đình khiến cho việc học bị gián đoạn. Chính vì thế mà từ ngày trở về thành, được đi học lại, tôi vẫn không tránh khỏi mặc cảm với học sinh ở thành, nhất là các học sinh chương trình Pháp hay các trường công lập.
 
Qua hai năm ở Huế làm học sinh một tư thục mới mở còn thưa thớt học sinh rồi đổi qua làm học sinh nội trú của tư thục Pellerin một thời nổi tiếng nhưng hiện tại đang lu mờ dần vì không còn được hâm mộ như Lycée Francais hay Providence về chương trình Pháp hoặc Quốc học về chương trình Việt, sau đó lại theo thân nhân rời bỏ thành phố trầm lặng này về Sài gòn và được cho vào chen chúc trong một lớp học thật xô bồ của tư thục Tân Thanh vài tháng, tôi thấy mình chẳng có một truyền thống nào để tự hào. Cái mặc cảm này tưởng chừng chấm dứt khi tôi cảm thấy chút hãnh diện gắn lên túi áo sơ mi của mình cái phù hiệu trường Chu Văn An với ngọn lửa hồng nhưng hình như bây giờ đang trở lại trong tôi.
 
Phải nói là sau khi đậu được bằng Trung học Ðệ Nhất cấp với hạng Bình Thứ, một điều kiện vừa đủ cho phép mình bước vào cánh cửa Trung học công lập mà khỏi phải lo lắng qua kỳ thi tuyển, tôi đã rất tự tin vác đơn chạy tới hai trường công lập nam sinh lớn nhất Sài gòn là Pétrus Ký và Chu văn An.
 
Kể về danh tiếng thì có lẽ giữa hai trường này không hẳn trường nào chịu nhún nhường nhưng kể về cơ sở thì trường Pétrus Ký ăn đứt vì là trường sở tại được thiết lập khang trang từ xưa trong khi trường Chu văn An chỉ có cái tên. Do sự qua phân đất nước sau Hiệp định đình chiến Genève 54, một số dân miền Bắc đã phải "bỏ của chạy lấy người" vào Nam tị nạn Cộng sản. Trường Chu văn An vì thế mà cũng được di chuyển từ Bắc vào Nam cùng với phong trào di cư, nhưng dĩ nhiên là chỉ có người mà không có cơ sở vật chất cho nên đã phải mượn tạm một toà nhà ký túc xá của trường Petrus ký để tạm sửa sang biến cải thành lớp học. Thành phần giáo sư cũng như học sinh vào thời bấy giờ hầu hết đều là Bắc di cư, còn mang nặng trong mình những sắc thái rất "Bắc kỳ".
 
Tuy không sinh trưởng ở đất Bắc nhưng vốn cũng có chút gốc gác xa xôi với vùng đất ngàn năm văn vật của đất nước và nhất là do cảm tình mơ mộng kể từ ngày bắt đầu biết đọc sách báo và qua những tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn đoàn, tôi thấy mình đâm ra mến yêu xứ Bắc kỳ, miền đất tổ của tôi mà tôi chưa biết đến bao giờ. Chính vì thế mà tôi đã dứt khoát nộp đơn vào trường Chu văn An dù thấy rằng so về cơ sở trường ốc thì Chu văn An quả là quá thiếu thốn, và nếu nói về quen thuộc thì tôi cũng chưa hề có bạn bè nào ở đây, chẳng qua chỉ vì trong thâm tâm tôi hình như đang muốn đi tìm chút vang bóng của Hà nội băm sáu phố phường qua những con người học sinh đất Bắc di cư.
 
Không biết thật tình tôi có tìm được chút hương vị nào của mùa thu Hà nội giữa một Chu văn An tạm cư trong khuôn viên Petrus Ký với mưa nắng hai mùa của Sài gòn như nhà thơ Nguyên Sa (đồng thời cũng là một giáo sư của trường) khi sáng tác bài thơ "Aùo Lụa Hà Ðông", nhưng khi trở thành một học sinh Chu văn An chính thức rồi, tôi mới thấy mình đã lạc vào giữa một đám "nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò" của xứ Bắc kỳ rất có hạng. Là học sinh ban C và năm đệ tam cũng được coi như là một năm xả hơi của chặng đường 12 năm đèn sách nên các bạn cùng lớp của tôi tha hồ vui nhộn, nhất là các bạn được mệnh danh là xóm nhà lá. Lại nữa, hầu hết họ đều là Bắc di cư và nếu không phải từ lớp dưới lên thì cũng từ các trường đệ nhất cấp công lập Nguyễn Trãi hay Trần Lục chuyển đến, do đó họ đều giữ được cái không khí người một nhà nên nói năng cũng rất là mạnh bạo. Cũng có một số nhỏ học sinh người Nam có lẽ do thích tìm không khí lạ nên xin vào Chu văn An, nhưng dù sao thì họ cũng có cái gốc đây là miền đất của họ. Chỉ có tôi không hẳn thuộc về Bắc mà cũng chẳng phải Nam kỳ, lại mang nặng trong tâm tư những kỷ niệm buồn của những ngày tháng sống ở vùng "đất cày lên sỏi đá", thành thử cứ như một cái gì lơ lửng. Sự kiện thiếu chỗ bám này đã khiến tôi không hội nhập được một cách trọn vẹn nên khi gặp khó khăn, tôi đã không mạnh dạn tìm đến thầy hoặc bạn để thổ lộ nhờ giúp đỡ, do đó mới có cảnh đứng chết trân để nhận lãnh trận cười trêu chọc của bạn bè.
 
Nhiều lúc nhìn lại quãng đời học sinh của mình tôi không khỏi ngạc nhiên thấy mình đã lập được một kỷ lục lạ đời trong sự học vấn. Chương trình giáo dục phổ thông thường ở bất cứ nước nào trên thế giới cũng được chia ra làm 2 bậc tiểu học và trung học với một thời gian kéo dài trong 12 năm. Trong khoảng thời gian đó, một học sinh bình thường có thể chỉ học tại một trường duy nhất, hoặc chỉ chuyển qua hai hoặc ba trường mỗi khi người học sinh lên cấp và tuân theo một truyền thống giáo dục nhất định. Riêng tôi để hoàn tất 12 lớp phổ thông, tôi đã từng theo học tất cả 15 trường, lớn có, nhỏ có, danh tiếng có và không tên tuổi cũng có. Có trường chỉ vài tháng và trường nào lâu nhất là 2 năm, ấy là chưa kể trong 15 trường đó tôi đã tiếp thu nhiều nền giáo dục khác nhau theo với sự biến chuyển của tình hình đất nước và môi trường sống của gia đình, với nhiều chương trình giáo dục thay đổi như chong chóng, nhiều khi mâu thuẫn nhau và đối kháng nhau. Có lẽ cái kinh nghiệm nổi trôi này đã khiến tôi đôi lúc trở nên hờ hững với những cái gì đang là hiện tại để rồi khi trở thành quá khứ thì lại đâm ra tiếc nhớ, nhất là khi quá khứ ấy có một cái gì đó để lại trong tâm hồn mình một dấu ấn sâu sắc.
 
Trong đời mỗi người chúng ta không ít thì nhiều cũng mang một vài cái biệt danh nào đó và những cái biệt danh bao giờ cũng có xuất xứ và gắn liền với ít nhiều kỷ niệm. "Người quân tử " là cái đinh móc tôi vào với bạn bè Chu Văn An. Lẽ ra tôi có thể cùng đi hết đoạn đường 3 năm của bậc đệ nhị cấp tại trường và có thêm nhiều kỷ niệm vui buồn với bạn bè hơn nữa, nhưng như tôi đã nói, vốn số long đong và con đường học vấn hay bị đứt đoạn nên cuối năm đệ nhị tôi lại nghỉ học và giã từ các bạn Chu Văn An từ đấy.
 
Nhớ lại ngày tháng cũ, kể ra ngoài một số bạn lém lỉnh và có tài chọc phá khiến tôi phải nể, cũng có những bạn rất chăm chỉ và chững chạc rất được tôi cảm mến. Trong số này phải kể anh bạn trưởng lớp và cao nhất lớp thường được mọi người gọi là Lưu công, một người bạn mà ngay từ thuở ấy trông đã rất đạo mạo, và chính anh ta cũng là người giúp tôi rất nhiều sau này trong việc tìm lại niềm tự tin để vượt qua hai cửa ải Tú tài và tiến vào đại học. Nhưng nói chung thì dù quậy phá hay chăm chỉ, tất cả các bạn bè Chu Văn An của tôi cũng đã sống rất chân tình với nhau và cùng chung một niềm tự hào về trường của mình.
 
Hơn bốn thập niên đã trôi qua kể từ ngày giã từ mái trường và mỗi người mỗi ngả mang theo mình một hoàn cảnh riêng, các bạn bè của tôi bây giờ cũng đang đi vào giai đoạn cuối của đời người nếu không nói là có một vài bạn đã ra đi, có bạn rất sớm như bạn Diệm và có bạn mới đây như bạn Ðiểu. Trong suốt thời gian dài đó, đôi khi tôi có gặp lại một vài bạn và họ đã gọi tôi bằng cái biệt danh "người quân tử" như một biểu lộ tình thân ái cũ, nhưng cũng có nhiều người tôi chưa một lần gặp lại. Tuy nhiên cái biệt danh "người quân tử" thì có lẽ vẫn còn trong ký ức của mỗi người.
 
Nếu điều đáng qúy trong cuộc đời là có một chút gì để nhớ thì cái biệt danh này quả là đáng qúy. Ngày ấy tôi không mấy hài lòng với cái biệt danh này thì trái lại bây giờ tôi lại thấy cái biệt danh này cũng là một cái kỷ niệm đẹp đáng gìn giữ như ngọn lửa hồng Chu Văn An vì nhờ nó mà tôi luôn nhớ về các bạn cũng như các bạn không đến nỗi quên tôi.
 
Houston tháng 9, 1999 
ĐOÀN VĂN KHANH


No comments:

Post a Comment