Hình như nơi mỗi con người chúng ta vẫn có cái cơ duyên nào đó đưa đẩy khiến cho chúng ta nhiều khi muốn tránh né một loại công việc hay đi theo một con đường nào đó mà chúng ta không thích hoặc không bao giờ có ý lựa chọn cho mình nhưng rồi mình lại cứ phải vướng vào đó như một cái nghiệp. Tôi cũng thấy mình không thoát ra ngoài cái vòng đó.
Sinh ra và lớn lên trên một
đất nước đang bị tàn phá vì một cuộc chiến tranh trường
kỳ và gian khổ, tôi thấy mình phải chứng kiến quá nhiều
thương đau cũng như từng gánh chịu nhiều sự mất mát, nhất
là sự mất mát những người thân yêu, do đó tôi thấy mình
đâm ra ghét chiến tranh, sợ chiến tranh và không muốn tham
dự vào chiến tranh. Nhưng chiến tranh thì vẫn cứ quay cuồng
như một cơn lốc mê cuồng cuốn hút hàng hàng lớp lớp người
tiếp nối nhau đi vào cuộc chiến và có những người đi
không bao giờ trở lại.
Tôi bẩm sinh mang một
thể chất không được cường tráng, thích sự mơ mộng hiền
hoà hơn là những hành động phiêu lưu mạnh bạo, cho nên
không bao giờ tôi nghĩ rằng mình sẽ có ngày bước vào nghiệp
võ. Do đó khi thấy lớp bạn bè cùng trang lứa rồi cũng đến
lượt tiếp nối lớp cha anh bước vào đời quân ngũ, có
người do lựa chọn nhưng cũng có người do hoàn cảnh bắt buộc, tôi vẫn mơ ước làm sao cho đất nước sớm trở lại
cảnh thanh bình, tôi có thể theo đuổi bậc Ðại học và
sẽ có được một cuộc sống yên vui bình thường.
Sở thích của tôi vẫn
là được theo đuổi một ngành khoa học nhưng vì hoàn cảnh
không cho phép nên lúc lên được Ðại học, tôi đã phải
đi vào Văn khoa mặc dù vẫn biết rằng cái ngành này thường
không mang lại cho con người theo đuổi nó một cuộc sống
khả quan và vững chắc. Không những thế, lúc vào Văn khoa
tôi lại chọn ban Triết, một môn học chẳng những không
hứa hẹn mang lại cơm no áo ấm cho bản thân mà cũng chẳng
có vẻ thiết thực tí nào đối với một xã hội đang quay
cuồng vì chiến tranh, còn con người thì đang bị những vấn
đề sống chết cũng như mục tiêu cơm áo thôi thúc hàng ngày.
Phải chăng đấy cũng là một nghiệp dĩ đối với tôi?
Sau khi nền Ðệ nhất
Cộng hòa bị lật đổ, tình hình chiến sự càng ngày càng
gia tăng nên lệnh động viên được thi hành triệt để. Vì
thế mà sau mấy năm được hoãn dịch vì lý do học vấn,
cuối cùng sau khi đã tốt nghiệp Văn khoa, tôi cũng đã phải
cầm tờ giấy báo gọi nhập ngũ đến trình diện tại Quân
vụ thị trấn Ðô thành Sài gòn.
Thật tình mà nói, từ
nhỏ cho tới khi đã bước vào tận phòng khám sức khoẻ của
Trung tâm Nhập ngũ 3, tôi vẫn chưa bao giờ nghĩ rằng mình
sẽ là một người lính. Với tấm thân gầy gò, chưa bao giờ
cân nặng quá 40 ký và chỉ số pignet thì cũng nằm xê xích
con số 40, lại thêm cái vết thẹo nám phổi lúc còn theo học
Tú tài, tôi đinh ninh sẽ được quân đội chê, không ngờ
sau khi được cân đo và khám tổng quát theo một cung cách
rất nhà binh, tôi được xe GMC chở thẳng vào quân trường
Thủ đức không một lời từ giã với cuộc đời bên ngoài.
Thế là tôi đã bước vào nghiệp võ chỉ vì... "vận nước
đang cần đến những chàng trai của thế hệ."
Sau bốn tháng "thao trường
đổ mồ hôi" ở quân trường Thủ đức, kết thúc giai đoạn
1 của chương trình huấn luyện căn bản, nhiều bạn đồng
khóa với tôi đã được chọn đi ngành, tôi vẫn ở lại.
Chút hy vọng được phục vụ trong một ngành chuyên môn đành
tan theo mây khói. Tôi hơi buồn nhưng dù sao thì cha chú tôi
cũng đã từng tranh đấu và hy sinh cho tự do và chính nghĩa
của dân tộc cho nên tôi không thể hèn nhát làm một kẻ
trốn chạy, tuy nhiên đối với tôi, khi phải đi chiến đấu
thì cái hành động đưa súng nhằm bắn vào con người, cho
dù đó là kẻ thù, tôi vẫn cảm thấy như có một chút gì
bất nhẫn trong lòng.
Ðang cố gắng làm quen
với số phận thêm 4 tháng bò lết chuẩn bị cho "sa trường
bớt đổ máu" thì một hôm đang đi bãi, tôi được lệnh
gọi về trại gấp vì có công điện thuyên chuyển tôi về
trường Võ bị Ðà lạt. Tôi không phải là loại COCC để
được hưởng những ưu đãi bất ngờ nên tôi cũng không
biết đích xác tại sao mình lại bị đưa về đây làm gì,
vì khi cầm cái sự vụ lệnh tôi thấy ghi lý do thuyên chuyển
chỉ ngắn gọn có mấy chữ : "thực tập giai đoạn 2" nhưng
đã là nhà binh thì phải thi hành lệnh mà không cần thắc mắc. Tuy nhiên tôi cũng không khỏi băn khoăn lo lắng vì thấy
mình bỗng nhiên lại phải chuyển qua quân trường Võ bị
Ðà lạt là nơi đào tạo sĩ quan hiện dịch, như thế có
nghĩa là tôi sẽ phải trải qua một sự thụ huấn gay go hơn,
và như thế sẽ là một sự thử thách quá lớn.
Vì sự thay đổi đơn
vị của tôi có tính cách lẻ loi và bất ngờ nên tôi được
hưởng 10 ngày phép đặc biệt và phải tự mình đến Trung
tâm Tiếp vận xin phương tiện di chuyển để đến trình diện
đơn vị mới. Ðúng ngày ấn định, tôi lên phi trường Tân
sơn Nhất đáp chuyến máy bay quân sự để về Ðà lạt. Cùng
đi trong chuyến bay này ngoài một số quân nhân thường, còn
có rất nhiều SVSQ mang an pha đỏ và phù hiệu Võ bị, chỉ
có mình tôi mang phù hiệu Thủ đức. Thấy tôi có vẻ lẻ
loi và lúng túng với mớ ba lô túi xách quân trang của mình,
trong khi các SVSQ kia đều mang một túi xách gọn nhẹ, vì họ
đều là những người đi nghỉ phép thường niên nay quay lại
trường, một SVSQ Võ bị đã giúp tôi mang hành lý và gợi
chuyện với tôi. Sau khi nghe tôi kể qua sự trạng, anh SVSQ
nọ mỉm cười và cho tôi biết là như vậy thì anh ta sẽ
phải gọi tôi bằng thầy và giới thiệu tôi là thầy với
các SVSQ khác. Tôi hơi ngạc nhiên với lối xưng hô chẳng
có vẻ nhà binh tí nào của anh SVSQ này nhưng dù sao thì đây
cũng là một điều trấn an đầu tiên của tôi về nỗi lo
lắng cho cái tương lai của mình ở trường Võ bị.
Trong cái lạnh của tháng
giêng ở Ðà lạt, tôi chỉ thắng trên mình bộ đồ vàng
SVSQ Thủ đức với cặp cầu vai con cá một vạch, lỉnh kỉnh
ba lô, sac marin vào trình diện Bộ Chỉ huy trường Võ bị.
Kể ra tôi cũng hơi khớp lúc bước chân qua cổng Nam quan,
nhìn vào bên trong có những tòa building cao lớn với các sĩ
quan hiên ngang trong bộ quân phục mùa đông bằng dạ màu sẫm,
khác với bộ đồ kaki vàng mỏng manh của tôi. Tuy nhiên sau
khi đã vào trình diện Ðại tá Chỉ huy trưởng rồi được
lệnh qua Văn hóa vụ trình diện Thiếu tá Văn hóa vụ trưởng,
cuối cùng được phân bổ về khoa Nhân văn, đến trình diện
Ðại úy Trưởng khoa, không ngờ lại gặp đúng ông bạn đồng
môn già gốc nhà binh ở Văn khoa ngày nào, tôi mới biết rằng
số phận đã an bài cho tôi làm thầy ở đây, điều tôi chưa
hề nghĩ tới bao giờ. Tôi đã đến với trường Võ bị không
vì cái chất võ mà vì cái chất văn của tôi, cũng như trường
Võ bị có tôi vì trường cũng đang cần văn cho quan võ. Như
vậy cái duyên của tôi với trường Võ bị chính là do nơi
cái mối giao duyên văn võ trong chương trình huấn luyện của
nhà trường.
Bấy giờ là đầu xuân
và cũng là đầu mùa văn hóa nên tôi cũng phải bắt đầu
đứng lớp. Trường lúc ấy chỉ có 2 khóa nhưng thành 3 vì
khoá 22 có một số không muốn theo chương trình 4 năm vừa
được tái thiết lập nên vẫn tiếp tục hệ 2 năm và được
gọi là khoá 22A. Số còn lại gọi là 22B cũng như khóa 23
là hệ 4 năm. Tôi đã gặp lại anh SVSQ bắt chuyện với tôi
hôm cùng đi máy bay trong một lớp học khoá 22B mà anh ta là
Toán trưởng. Sau khi anh ta trình diện lớp học theo đúng quân
cách, tôi cũng không quên đáp lại anh ta bằng một nụ cười
thông cảm vì bây giờ thì tương quan giữa anh ta và tôi đã
bị ràng buộc theo những thể thức mà nội quy đã ấn định.
Kể ra so về tuổi tác
lúc bấy giờ thì giữa tôi và các SVSQ khoá 22 cũng chẳng
xê xích là bao. Tôi mới tốt nghiệp Ðại học thì bị động
viên. Các SVSQ thì có vài người cũng đã từng lăn lóc vài
năm đại học bên ngoài nhưng không thành công nên đã quay
ra chọn con đường Võ bị. Do đó mà các SVSQ khóa 22A, những
người quan tâm đến sự thành công trong binh nghiệp hơn là
việc học văn hóa, nhất là cái môn tôi phụ trách dạy cho
khoá 22A lúc bấy giờ lại là môn Triết học tổng quát, một
môn học có vẻ chẳng giúp ích gì cho những con người đang
sửa soạn cầm súng ra chiến trường, cho nên họ cũng đã
quấy nhộn không ít vào những giờ học do tôi phụ trách.
Những ngày gần cuối khoá, các SVSQ này còn chọc đùa tôi
và gọi tôi là Socrate. Tôi nhìn cái bảng đen chằng chịt
những từ ngữ trừu tượng của triết học, nhìn bộ quân
phục trên mình, nhìn những khuôn mặt yêu đời tràn đầy
nhựa sống đang sắp sửa từ giã mái trường này để lao
mình vào vòng lửa đạn, nhìn khung cảnh đồi núi nên thơ
thanh bình nơi đây trong khi ở những nơi xa xăm nào đó tiếng
súng vẫn vọng về hàng ngày như một sự nhắc nhở của
thực tế phũ phàng, bất giác tôi thấy mình đâm ra có những
suy nghĩ mông lung về những cái tương quan phi lý của cuộc
đời. Có lẽ do sự suy nghĩ đó mà tôi đã mỉm cười thông
cảm với tất cả những sự chọc ghẹo.
Lúc mới về trường tôi
vẫn thường lấy làm lạ tai khi nghe các sĩ quan có lúc dùng
tiếng "Cùi" để gọi các SVSQ. Sau khi tìm hiểu tôi mới biết
từ này phát xuất từ thời có một vị Văn hoá vụ trưởng
xuống đứng lớp ngao ngán cho cái cảnh dạy văn hoá cho những
kẻ đã cam tâm chọn con đường võ nên đã tặng cho họ cái
từ này. Thực ra thì người SVSQ Võ bị không phải ai cũng
không quan tâm đến vấn đề học văn hoá mà có nhiều người
rất chăm chỉ chẳng khác gì một sinh viên dân sự ở ngoài
đời. Tuy nhiên họ vẫn vui vẻ chấp nhận cái từ này như
một cái biệt danh diễn tả một nét đặc biệt nào đó nơi họ.
Kể ra thì suốt thời
gian làm công tác giảng huấn, mối tương quan giữa tôi và
các SVSQ nói chung vẫn là tốt đẹp lúc ở trong lớp học
hay lúc cùng các SVSQ làm công tác trực gác. Tuy nhiên cũng
có một lần trong khi giám thị kỳ thi giai đoạn, một SVSQ
đã quay bài và bị tôi bắt được. Người SVSQ này đã cầm
tập tài liệu dấu trong hộc bàn bị tôi lôi ra xé một cách
bực tức trước mặt tôi. Thấy anh SVSQ này tỏ ra môt thái
độ quá kém nhã đối với tôi trước mặt các SVSQ khác làm
tự ái của tôi bị tổn thương nên tôi lập tức đem sự
việc trình cho Giáo sư Trưởng khoa và ông này đã báo ngay
lên cho Văn hoá vụ trưởng.
Lẽ ra nếu như anh SVSQ
đó chỉ lặng lẽ giao nộp tập tài liệu thì chẳng có chuyện
gì đáng tiếc xảy ra. Nhưng hành động thiếu ý thức của
anh SVSQ đã làm cho sự việc trở thành nghiêm trọng. Chính
vì để bảo tồn danh dự của tập thể SVSQ mà anh SVSQ nọ
bị đưa ra Hội đồng Kỷ luật. Cũng may là nội vụ cũng
đã được giải quyết một cách hợp lý và anh SVSQ cũng chỉ
bị trừng phạt vừa phải chứ không đến nỗi bị kỷ luật
nặng nề có thể ảnh hưởng to tát đến tương lai binh nghiệp
của anh ta, điều mà nếu xảy ra sẽ làm cho tôi phải ân hận. Tuy nhiên dù sao thì đó cũng là một vết buồn xen vào
những kỷ niệm êm đềm của tôi trong thời gian phục vụ
tại quân trường này.
Tôi vẫn nghĩ cái duyên
của tôi với trường Võ bị cũng chỉ kéo dài theo 4 năm quân
dịch của tôi thôi. Cuộc tấn công Tết Mậu thân của quân
đội Cộng sản vào các thị trấn Miền Nam đã làm cho tình
hình thay đổi và tôi cũng phải quên đi mọi dự tính. Lệnh
cho giải ngũ khi đáo hạn các sĩ quan trừ bị thuộc thành
phần động viên như tôi ngưng áp dụng. Nhân trường Võ bị
có kế hoạch đào tạo giáo sư cho trường bằng cách cho sĩ
quan hội đủ điều kiện được cấp học bổng du học để
lấy thêm bằng cấp cao hơn và trở thành giáo sư thực thụ
của trường, tôi thấy mình cũng không có hy vọng sẽ trở
về đời sống dân sự nên đã tình nguyện gia nhập vào chương
trình này để làm một "Ðại úy già", từ ngữ mà các sĩ
quan Văn hoá vụ vẫn thường dùng để gọi đùa những sĩ
quan động viên tình nguyện du học để phục vụ trường
lâu dài. Thế là cái duyên văn võ của tôi với trường Võ
bị bắt đầu thêm gắn bó.
Chính vì được du học
mà tôi cũng đã có một thời gian tạm vắng mặt tại trường,
xa các khóa SVSQ để làm một người sinh viên tự do thơ thới
ở nước ngoài. Tuy nhiên hình như trót mang cái áo võ trên
người thì cái nghiệp võ cũng không để yên cho tôi chỉ
cứ hưởng thanh bình cho nên hầu như lần nào có biến cố
quân sự xảy đến cho trường tôi cũng lại có mặt để
cái nghiệp võ có dịp bắt tôi phải làm cái nhiệm vụ cầm
súng.
Trong biến cố Tết Mậu
thân, tôi đã cầm giấy nghỉ phép trong tay nhưng không hiểu
vì sao tôi lại chẳng đi đâu cả, có lẽ do Tết thì ai cũng
mong muốn về nhà để vui hưởng không khí gia đình mà tôi
lúc ấy thì lại không có nhà để về. Do đó mà khi Cộng
quân đánh vào Ðà lạt, tôi đang nghỉ phép cũng vào trường
trình diện để rồi qua kho vũ khí lãnh một khẩu súng. Lẽ
ra hàng sĩ quan ngoài khẩu Colt có thể lãnh thêm một khẩu
carbine nhưng vì trong kho không còn loại vũ khí cá nhân gọn
nhẹ nào khác ngoài loại súng Garant nặng nề tôi đã từng
ôm nó hàng ngày lúc còn là SVSQ thụ huấn tại Quân trường
Thủ đức nên viên Thượng sĩ coi kho đã trao cho tôi một
khẩu Thompson chỉ còn được dùng để huấn luyện. Cầm khẩu
tiểu liên trong tay tôi bỗng buồn cười nhớ lại ngày nhỏ
trong kháng chiến tôi đã từng nghe có một bài hát ca ngợi
du kích giữ làng với mã tấu cũng cướp được Thompson của
giặc Tây, một loại vũ khí được coi là tối tân vào thời ấy, nhưng nay thì đã trở thành lỗi
thời, và bây giờ thì
chính tôi lại đang mang nó ra thử lửa với A.K hiện đại
hơn của Cộng quân để bảo vệ tự do cho mảnh đất còn lại.
Mặc dù quân số hiện
diện của trường lúc bấy giờ không đầy đủ vì Khoá 23
đang đi phép thường niên, tại trường chỉ còn khoá 22 và
khóa 24, vừa mới qua giai đoạn Tân khoá sinh nên hãy còn nhiều
bỡ ngỡ, sĩ quan cũng có nhiều người đang nghỉ phép Tết
ở xa, nhưng với tinh thần biết hy sinh và có kỷ luật mà
số còn ở lại vẫn làm tốt nhiệm vụ bảo vệ trường
và thành phố Ðà lạt.
Thật ra thì người sĩ
quan Văn hóa vụ không phải xông pha chiến đấu nhưng không
phải vì thế mà không có hy sinh. Trong dịp Tết Mậu Thân
cũng đã có một sĩ quan giáo sư bị thương vì đạn A.K của
Cộng quân trên đường đi làm nhiêm vụ của người quân
nhân. Trong lần Cộng quân đánh đặc công vào trường lần
thứ nhất, có hai sĩ quan hy sinh thì một sĩ quan là thuộc
Văn hóa vụ và hai sĩ quan bị trọng thương cũng là giáo sư
văn hóa. Tất cả đều đang làm nhiệm vụ sĩ quan trực trong
đêm hôm đó. Chính vì sự hy sinh đó mà cái tên Ðào thiện
Yết đã được chọn dùng để đặt tên cho Nhà Thí nghiệm
nặng của trường được hoàn thành sau đó như một sự tưởng
niệm người sĩ quan văn hoá này.
Rồi cũng chính vì cái
áo võ mà ngày trường Võ bị bắt buộc phải di tản khỏi
Ðà lạt, tôi cũng lại có mặt trong đoàn quân cùng với các
SVSQ các khóa 28, 29, 30, 31 (cũng vừa mới được gắn an pha)
lặng lẽ rút lui qua cổng Lý Thường Kiệt trong đêm tối
để xuống Sông Pha. Trên đường di chuyển, tôi quay nhìn lại
ngôi trường bỏ lại sau lưng với ngọn lửa kho xăng đang
bốc cháy và những tiếng nổ từ kho đạn vang lên trong đêm
mà thấy lòng se thắt.
Ðoàn quân tiếp tục cuộc
hành trình gian nan qua Phan rang, vào Phan thiết, Bình Tuy rồi
được phi cơ chở về Biên hoà, tạm đóng quân ở trường
Bộ binh Long thành. Tại đây tôi lại ngậm ngùi chứng kiến
cảnh ra trường non của các SVSQ khóa 28 và 29, trong sân cử
hành lễ mãn khóa mà ngoài sân thì xe GMC của các đơn vị
nổ máy túc trực sẵn chờ đưa các Tân sĩ quan ra thẳng chiến
trường.
Mặc dù thấy rõ tình
hình quân sự cũng như chính trị đã đến hồi không còn
cơ cứu vãn, hầu hết cấp chỉ huy đã cao chạy xa bay, tôi
cùng một số rất ít sĩ quan còn kẹt lại vẫn theo trường (bấy giờ chỉ còn lại khóa 30 và 31), cùng với trường Bộ
binh Long thành trong đợt rút lui về Thủ đức, đóng quân
tại doanh trại vốn từng là cơ sở của trường Bộ binh
trước kia. Tại đây tôi đã buồn rầu chứng kiến lễ nhậm
chức của tân Chỉ huy trưởng được cử hành một cách đơn
giản tới mức tối đa trong một căn phòng trống rỗng không
bày biện, trước một số sĩ quan thật thưa thớt, để rồi
vài ngày sau đó chợt bàng hoàng thấy mình tan hàng tại chính
nơi 9 năm về trước tôi bỡ ngỡ bước vào đời quân ngũ
như một tân khóa sinh.
Những ngày bị tập trung
cải tạo, tôi đã có dịp gặp lại một số cựu SVSQ Võ
bị cùng chung thân phận trong các trại giam. Thường các cựu
SVSQ này đã nhận ra tôi trước khi tôi nhận ra họ. Có thể
nói là các cựu SVSQ lớp trẻ đều có một lập trường quốc
gia rất vững và tinh thần tương thân tương trợ rất cao.
Chính tôi cũng đã từng được các cựu SVSQ ở chung trại
liên lạc, giúp đỡ và thông báo những tin tức cần thiết.
Nói chung thì tất cả các cựu SVSQ này khi gặp tôi họ cũng
không quên lối xưng hô cũ và vẫn gọi tôi bằng tiếng thầy
thân yêu dù có một số cựu SVSQ chưa bao giờ tiếp xúc với
tôi qua lớp học văn hóa hồi còn ở quân trường, hoặc so
về cấp bậc thì họ đã qua mặt tôi. Trong hoàn cảnh trại giam, con người bị giản lược thành một sinh vật bị cầm
tù thì ai cũng như ai, cái tiếng thầy trong trường hợp này
quả thực đã biểu lộ rất nhiều ý nghĩa, và đó cũng là
cái điều chứng tỏ cho thấy cái tinh thần tôn trọng mối
tương quan văn võ là một nét độc đáo của người SVSQ Võ
bị và điều ấy đã trở thành một truyền thống ăn sâu
vào tâm thức các cựu SVSQ khiến cho dù hoàn cảnh có thay
đổi, tâm thức ấy vẫn không bị xóa nhoà.
Qua bao nhiêu năm tháng
sống mỏi mòn trong các trại tập trung rồi cũng được thả
về nhưng chỉ để làm một loại phó thường dân không có
tí quyền hạn gì đối với quê hương đất nước của mình,
tôi những tưởng thế là hết. Nhưng rồi tình thế lại xoay
chiều. Có lẽ vì muốn cứu vãn cho tình trạng bi đát của
nền kinh tế cộng sản mà nhà cầm quyền cộng sản đã buộc
lòng cho phép những cựu sĩ quan và viên chức chế độ cũ
đã từng bị chế độ mới tập trung cải tạo được ra
đi định cư ở nước ngoài. Tôi cũng nằm trong thành phần
đó và đã ra đi, không biết là mình vui hay buồn vì tuổi
hoa niên của tôi đã bị hao mòn và lãng phí vì tù đày mất rồi.
Biến cố 30-4-75 xảy ra,
chấm dứt nền Cộng hòa của Miền Nam cũng là cơ hội mở
màn cho một thời kỳ tỵ nạn sống lưu vong của những con
người Việt nam không chấp nhận chế độ cộng sản. Nguyên
nhân và trách nhiệm của sự đổ vỡ của một chế độ
do đâu và lỗi về ai là điều lịch sử về sau sẽ phán
xét. Nhưng dù sao thì đối với những con người đã có một
lần tham dự vào cuộc chiến với ý hướng bảo vệ tự do
và mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc thì khi nhìn lại cũng không
làm sao tránh khỏi đau lòng vì thấy bao công lao và nhiệt
tình của bao lớp người đã đổ ra đều hoá ra công dã tràng.
Riêng đối với những
con người vốn là cựu SVSQ Võ bị thì qua bao nhiêu năm tháng
với nhiều biến đổi, ngoài những người đã hy sinh ngoài
chiến trường hay nằm xuống trong các trại tập trung cải tạo, đa số những kẻ còn sống sót nay đã định cư ở
các nước tự do. Mặc dù trường Võ bị Quốc gia Ðà lạt
không còn tồn tại trên thực tế nhưng lý tưởng quốc gia
dân tộc vẫn còn và cái truyền thống của những con người
Võ bị Ðà lạt vẫn được duy trì. Ðặc san Ða hiệu lại
tái xuất hiện trên vùng đất dung thân của những người
xa quê hương để tiếp nối truyền thống đấu tranh cho lý
tưởng tự do dân tộc và là sợi dây liên lạc để cho những
người còn sống nghĩ đến nhau bằng tình cảm thương yêu
đùm bọc và cho người đã nằm xuống còn được nhắc nhở
đến bằng những cảm tình thương tiếc chân thành.
Ðến xứ người làm lại
cuộc đời một cách muộn màng, mới đầu tôi thấy mình
hầu như cũng chẳng còn gì để làm lại. Nhưng rồi một
hôm tờ đặc san Ða hiệu đã đến với tôi và tôi thấy
rằng cuộc chiến tranh bằng quân sự tuy đã chấm dứt nhưng
cuộc chiến đấu trên mặt trận chính trị vẫn còn tiếp
diễn và càng ngày càng mở rộng. Những người cựu SVSQ trường
Võ bị đã dùng tờ đặc san Ða hiệu như một phương tiện
đấu tranh cho chính nghiã Tự do của dân tộc và nhờ qua đặc
san Ða hiệu, tôi thấy mình vẫn có thể đóng góp chút gì
đó vào sự duy trì và nâng cao tinh thần truyền thống đấu
tranh của người cựu SVSQ Võ bị bằng cách truyền đạt lại
cho những người mình thương mến một chút suy tư và kinh
nghiệm của mình về những vấn đề liên quan đến sự tồn
vong của dân tộc, do đó tôi đã không ngần ngại tham gia
gửi bài vở cho tờ Ða hiệu và chính nhờ thế mà một lần nữa, tôi thấy cái duyên văn võ của mình với trường Võ
bị vẫn còn được tiếp nối.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment