Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Thursday, February 7, 2013

Luận Lý Con Kỳ Đà

Tạp luận


1.- LÝ LUẬN VÀ LUẬN LÝ

Nói đến luận lý là nói đến cái phương pháp phải theo trong khi lý luận để mang lại kết quả đúng. Sự suy luận thường dựa vào hai phương pháp chính: quy nạp và diễn dịch. Phương pháp quy nạp đi từ những ý tưởng đặc thù đến một ý tưởng kết luận tổng quát. Phương pháp diễn dịch dùng ý tưởng tổng quát có sẵn trong tiền đề để rút ra một ý tưởng kết luận đặc thù. Thông thường người ta vẫn dùng phương pháp quy nạp để tìm ra chân lý, và một khi có được chân lý thì chân lý đó lại được dùng làm tiền đề cho sự suy luận theo phương pháp diễn dịch để có thể rút ra kết luận cho từng trường hợp đặc thù. Trong Luận lý học cổ điển Tây phương, hình thức suy luận theo Tam đoạn luận vẫn được coi là tiêu biểu cho phương pháp suy luận diễn dịch này. Ý tưởng kết luận được rút ra từ ý tưởng làm tiền đề, qua trung gian của một ý tưởng làm trung đề.

Ðể có kết luận đúng, sự suy luận phải theo đúng phương pháp, tức là ý tưởng làm tiền đề phải bao hàm ý tưởng được rút ra trong kết luận, hay nói cách khác, ý tưởng trong tiền đề phải lớn hơn ý tưởng trong kết luận. Tiền đề chứa ý tưởng toàn thể, và kết luận chỉ là ý tưởng thành phần có trong toàn thể đó. Do đó một khi tiền đề đúng, trung đề đúng, suy luận đúng phương pháp, thì kết luận cũng đúng, hay nói cách khác, khi đã chấp nhận tiền đề và trung đề, tất nhiên phải chấp nhận kết luận. Bất cứ người nào theo học môn luận lý, đều thuộc lòng cái thí dụ đã trở thành kinh điển:

Tiền đề:   Mọi người đều phải chết.
Trung đề: Socrate là người.
Kết luận:  Socrate phải chết.


Dựa vào thí dụ trên ta có thể nói: "Nếu mọi người Việt nam đều là da vàng mũi tẹt, và nếu Tom là người Việt nam thì Tom là da vàng mũi tẹt." Ý tưởng trong câu kết luận này có chứa sẵn trong tiền đề nên đó là một câu kết luận đúng về mặt luận lý. Tuy nhiên nếu ta nói: "Nếu mọi người Việt nam đều là da vàng mũi tẹt, và nếu Tom là da vàng mũi tẹt thì Tom là người Việt nam" thì đây lại là một câu kết luận sai về mặt luận lý vì cái ý tưởng da vàng mũi tẹt có tính cách bao quát hay rộng nghĩa hơn ý tưởng người Việt nam. Không phải chỉ có người Việt nam mới có da vàng mũi tẹt mà còn nhiều dân tộc Á châu khác cũng mang chung các đặc tính ấy như người Trung hoa, người Nhật, người Thái v.v...

Tân luận lý hay phương pháp diễn dịch toán học thì lại dựa trên điều kiện cần và đủ của tiền đề để đi đến kết luận đúng. Cũng với thí dụ trên, ý tưởng người Việt nam là điều kiện cần và đủ có trong tiền đề, cho nên khi kết luận Tom là người Việt nam tất nhiên Tom là da vàng mũi tẹt thì đó là kết luận đúng. Nhưng khi ta nói Tom da vàng mũi tẹt nên Tom là người Việt nam, ta đã lý luận sai vì da vàng mũi tẹt là điều kiện cần nhưng chưa phải là điều kiện đủ để kết luận Tom là người Việt nam.

Người Trung hoa thường lý luận theo kiểu Liên châu luận. Một ý tưởng làm điều kiện cho ý tưởng khác xuất hiện, và tất cả liên kết với nhau như một chuỗi mắt xích. Phương pháp luận lý theo liên châu luận không đặt vấn đề ý tưởng trong kết luận phải được chứa sẵn trong tiền đề như trong hình thức Tam đoạn luận, cũng không đặt vấn đề điều kiện cần và đủ như trong luận lý Toán học, cho nên sự liên hệ giữa hai vế của một câu nói chỉ là mối tương quan nhân quả của hai ý tưởng, do đó nếu một khi bị lạm dụng sẽ dễ dàng đưa đến ngụy biện, rất tai hại cho việc đi tìm chân lý thật.

Chính vì phân biệt được tính chất quan trọng của ý niệm toàn thể và ý niệm thành phần trong luận lý để có thể có được chân lý đúng mà Hàn Phi tử đã lý luận: "Bạch mã phi mã" (Ngựa trắng không phải là ngựa.) Ý niệm toàn thể bao hàm hay lớn hơn ý tưởng thành phần, cho nên không thể đem thành phần mà gọi cái toàn thể. Ngựa trắng là con ngựa nào có lông màu trắng, do đó chỉ giới hạn cho những con ngựa có lông trắng mà thôi. Còn ý tưởng về ngựa là một ý tưởng thuộc về chủng loại trong các loài thú vật nên bao quát hơn, vì ngựa gồm tất cả những loài ngựa khác nhau, có màu lông khác nhau hay những đặc tính khác nhau.

Con người hơn các sinh vật khác ở chỗ con người có lý trí nên trong xã hội loài người, mọi tổ chức đều do lý trí quyết định. Xã hội được tổ chức như thế nào là do nơi quan niệm của con người phát xuất từ những tiền đề được coi như là những công ly.ù và từ những công lý đo,ù con người sẽ lại diễn dịch ra cho từng trường hợp đặc thù để mọi người cùng chấp nhận và tuân theo. Một xã hội dân chủ pháp trị là một xã hội được xây dựng trên căn bản lý luận theo luận lý. Như vậy là con người luôn luôn cần lý luận, và muốn cho lý luận chặt chẽ và hợp lý thì phải theo đúng luận lý, có thế thì mới thuyết phục được mọi người chấp nhận là đúng để từ đó mọi tranh chấp sẽ được giải quyết và tổ chức xã hội mới mang lại kết quả hữu hiệu.


2.- LUẬN LÝ CON KỲ ÐÀ


Yếu tính của sự suy luận là sự đòi hỏi phải trừu tượng hóa sự vật thành những ý niệm. Nhưng bản chất của người Việt nam thì lại thiên về tình cảm, thường nhìn sự vật qua khía cạnh hiện tượng mà không đào sâu vào yếu tính cho nên dễ bị lôi cuốn theo những hình ảnh tâm lý do cảm quan mang lại. Do đó mà khi suy luận, người bình dân Việt nam hầu như không có được cái tinh thần duy lý kiểu Tây phương.

Vì quen cảm nhận sự vật qua hình ảnh tâm lý cho nên người Việt nam thường giỏi về mặt quan sát nhưng lại kém về mặt lý luận theo khoa học, do đó thường chỉ ưa bắt chước hay biến cải cái hiện có cho phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình chứ không thích sáng tạo. Những sáng kiến như biến cải chiếc xe đạp thành chiếc xe thồ để chuyển đồ tiếp tế cho chiến trường hay cách thức dùng sức người đå kéo các khẩu trọng pháo theo sườn núi lên các điểm cao trong trận Ðiện biên phủ là kết quả của sự suy luận theo liên tưởng chứ không phải là lối suy luận theo khoa học.

Nếu sự suy luận này có mang lại thành công về mặt quân sự vì đã đánh lừa được đối phương vốn quen lý luận theo luận lý thì trái lại, về mặt kinh tế, lối suy luận này lại mang đến nhiều thất bại nghiêm trọng. Vì không nắm vững các nguyên tắc khoa học cho nên những điều mà người Cộng sản vẫn luôn luôn đề cao như "sáng kiến cải tiến kỹ thuật," hoặc là "phương pháp tiết kiệm trong sản xuất," thường chỉ là kết quả của những suy luận lệch lạc hay thiển cận, khiến cho khi đem ra áp dụng đã vô tình gây thiệt hại cho nền kinh tế, vì hàng sản xuất ra chỉ có số lượng và hình thức nhưng phẩm chất không có nên không dùng được. Rốt cuộc thành ra tài nguyên bị phung phá, lao động bị lãng phí và xã hội vẫn đói nghèo.

Có thể nói cách lý luận thông thường nhất của người bình dân Việt nam vẫn là lý luận theo cảm quan qua các hình ảnh tâm lý dựa trên định luật liên tưởng về tâm lý học: Một hình ảnh hiện ra trong ý thức sẽ lôi kéo theo một hình ảnh khác tương tự hay tương phản tùy theo ý hướng của tâm lý đang hoạt động. Do đó khi đem cái tương quan của hai hình ảnh tâm lý để kết luận đó là chân lý sẽ dễ trở thành lệch lạc, hồ đồ, và có khi còn mâu thuẫn nữa, như trong bài ca dao sau:

Kỳ đà là cha cắc ké
Cắc ké là mẹ kỳ nhông
Kỳ nhông là ông kỳ đà


Những khẩu hiệu tuyên truyền như: "Giai cấp địa chủ và Trí thức tiểu tư sản là phản động", "Tiêu diệt địa chủ và trí thức tiểu tư sản phản động là yêu nước", "Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" v.v... của người cộng sản Việt nam là những tiền đề võ đoán như trong luận lý con kỳ đà nói trên. Từ những tiền đề võ đoán này, người cộng sản lại cứ thế mà tiếp tục diễn dịch qua các hình ảnh tâm lý khác để đưa người dân không có trình độ lý luận và không biết gì về luận lý theo khoa học lạc mãi vào cái mê hồn trận của những sai lầm về tư tưởng. Cái lối suy luận bằng cảm quan này cũng xuất hiện nơi những người có học thức. Trên con đường đi tìm một phương thức giải cứu cho dân tộc, Hồ chí Minh đã từng có dịp tiếp xúc với những tư tưởng tự do của Tây phương cũng như quan niệm về nền dân chủ pháp trị của Hoa kỳ trước khi bắt gặp tư tưởng Mác xít, nhưng cũng vì không suy luận trên cơ sở của những ý niệm trừu tượng mà vẫn bị những hình ảnh tâm lý do cảm quan mang lại chi phối cho nên khi thấy những bất công tồn tại trong chế độ tư bản, hay khi bắt gặp cảnh người da đen ở Mỹ bị người da trắng xử treo cổ một cách độc đoán, đã vội kết luận chế độ đó là nguyên nhân của mọi bất công xã hội, để rồi bị lôi cuốn vào trong cái ảo tưởng của chân lý cộng sản.

Ngay cả khi hai ông Diệm và Nhu chủ trương rằng "tiêu diệt hết cộng sản sẽ có tự do dân chủ" cũng là cách lý luận không theo đúng luận lý về điều kiện cần và đủ cho kết luận, do đó mà khi nêu một tiền đề chưa có điều kiện đủ làm điều kiện tiên quyết cho cả một chính sách, hai ông đã gặp phải sự chống đối về nhiều phía khiến cho sự nghiệp không thành. Trong quá khứ, thái độ bài bác những cải cách xã hội do sáng kiến từ suy luận của những kẻ có đầu óc sáng tạo, hay là chính sách bế quan tỏa cảng của vua quan nhà Nguyễn đối với Tây phương cũng là do hậu quả của cái lối lý luận không theo luận lý.

Chính vì không lý luận theo luận lý để từ sự suy luận tìm ra chân lý chung mà lý luận theo kiểu con kỳ đà này khiến cho người Việt nam rất dễ tranh cãi, cái gì cũng có thể cãi, không phải cãi để tìm ra chân lý đúng mà chỉ là cãi để tranh phần thắng cho cái nhận định chủ quan của mình, do đóù mà những cuộc tranh cãi hầu như không bao giờ chấm dứt mà thường chỉ là một sự tạm ngưng vì có những người chưa tìm ra lý lẽ để bẻ lại người kia theo kiểu " lý sự cùn" hay là "cãi chày cãi cối" với nhau mà thôi. Kết quả là sau khi tranh cãi không những vấn đề không sáng tỏ hay được giải quyết mà còn đưa đến chỗ "chín người thì mười ý " khiến cho những vấn đề của tập thể nhiều khi không phải được giải quyết trên căn bản của một sự thoả thuận chung mà chỉ là sự quyết định của một cá nhân nào đó có ảnh hưởng mạnh mà thôi, do đó thường không tạo thành sự hợp tác thực sự và bền vững.

Cũng vì cái tinh thần luận lý kỳ đà này mà dân Việt nam đã không phát triển được óc lý luận theo luận lý có tính cách khoa học dựa trên những ý niệm trừu tượng, mà thường bị các hình ảnh tâm lý không theo luận lý chi phối cho nên dễ bị tuyên truyền xách động. Ðiều này khiến cho người Việt nam dễ bị những lời lẽ mị dân dẫn dắt vào những nhận định sai lầm, khiến cho không còn nhận thức được đâu là chân lý thật, để rồi cứ bị vướng mắc vào cái vòng luẩn quẩn của sự bế tắc, và đành buông xuôi theo cái lý của kẻ mạnh đang khống chế mình.

 
3.- LÝ LUẬN CỦA NGƯỜI QUÂN TỬ KHÔN


Vì ngôn ngữ là phương tiện để lý luận cho nên ngôn ngữ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành lý luận. Muốn lý luận trong sáng và vững vàng thì ngôn từ phải rõ ràng chính xác. Nếu ngôn từ lắt léo thì lý luận cũng dễ trở thành lỏng lẻo, mà tiếng Việt thì lại có đặc tính rất lắt léo cho nên cái hiện tượng nói đi nói lại cũng là một sự kiện được coi như là thường tình và hợp lý đối với người Việt nam. Do đó tục ngữ mới có câu: "Nói đi cũng phải, nói lại cũng dễ nghe." Vì tính chất cái thì "phải", cái thì "dễ nghe" này mà trong phán đoán, những nguyên tắc luận lý trừu tượng khô khan của lý trí đã bị hy sinh để nhường chỗ cho những nhận định hoàn toàn chủ quan tùy theo trạng thái tâm hồn của mỗi người, mỗi lúc. Một ngàn năm bị người Trung hoa cai trị có làm cho người Việt nam phải chấp nhận mẫu người quân tử từ quan niệm triết học Nho gia như mẫu người tiêu biểu cho một xã hội có kỷ cương, nhưng cái mẫu người ấy cũng đã được dân tộc Việt nam biến thái đi cho phù hợp với cái triết lý sống còn của mình:

Quân tử nhất ngôn là quân tử dại
Quân tử nói đi nói nói lại là quân tử khôn


Vì ý thức được thân phận bé nhỏ và luôn luôn bị kiềm chế nếu không nói là luôn luôn bị đe dọa tiêu diệt thì muốn được sống còn, con người Việt nam phải biết khôn ngoan tránh né tất cả những mối đe dọa từ phía người Trung hoa. Do đó cái lối lý luận quanh co hay nói đi nói lại như một hình thức phản kháng sự áp bức hay biện minh cho hành động của mình để tránh được sự chế tài là một cách biểu lộ thái độ khôn ngoan của con người. Nhưng cái khôn ngoan chỉ giới hạn trong phạm vi lý luận quanh co hay nói đi nói lại để tránh né chứ không biết suy luận để tìm ra cho mình một chân lý chung để mọi người cùng hành động nên vẫn không bao giờ thoát khỏi ảnh hưởng của người Tàu để vươn lên. Ðiều này thể hiện rất rõ trong các câu ca dao và truyện kể có tính chất châm biếm và phản kháng.

Truyện dân gian Trạng Quỳnh là cả một rừng thí dụ điển hình cho cái luận lý con kỳ đà và cách lý luận của người quân tử khôn. Từ cái kinh nghiệm này, người Việt nam đã đem cái lý luận của người quân tử khôn áp dụng vào trong mọi lãnh vực.Về đối ngoại, người Việt nam cũng đã từng xử dụng rất nhiều lần cái lối vừa đánh vừa đàm hay vừa công kích vừa cầu thân để đối phó với ngoại bang mà ngay cả trong phạm vi đối nội, cái lối nói đi nói lại cũng được các nhà cầm quyền xử dụng để ứng phó với những sự bất mãn hay chống đối từ phía dân chúng. Riêng về phương diện này thì người cộng sản Việt nam đã biết cách khai thác triệt để cái luận lý con kỳ đà và lối lý luận của người quân tử khôn để nắm chặt lấy quần chúng và vận dụng quần chúng đấu tranh tiêu diệt đối lập để đưa dân tộc vào mê hồn trận của chủ nghĩa cộng sản.

Cũng vì người Việt nam không lý luận theo kiểu duy lý như người Tây phương cho nên người Pháp đã từng cai trị Việt nam 80 năm cũng chưa hiểu được người Việt nam, vì thế mà người Pháp đã không đạt được một thỏa hiệp với người Việt nam để giải quyết vấn đề thuộc điạ sau đệ nhị Thế chiến, do đó mà đã bị sa lầy vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa, nên rốt cuộc đã mất tất cả.

Người Mỹ cũng không hiểu cách lý luận của người Việt nam nên ban đầu đã thờ ơ với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt nam. Sau đó thì vì nguy cơ của cuộc chiến tranh lạnh với khối Cộng mà Mỹ lại giúp Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược để mong nhờ tay Pháp ngăn chặn làn sóng đỏ. Ðến khi Pháp thua trận, người Mỹ buộc phải dùng ông Ngô đình Diệm để củng cố Miền Nam, nhưng rồi người Mỹ lại xử dụng một số tướng tá trong quân đội Miền Nam để lật đổ Tổng thống Diệm khi thấy ông Diệm không đi đúng đường lối của mình, khiến cho tình hình chính trị Miền Nam trở thành rối loạn. Rồi cũng vì không hiểu người Việt nam nên người Mỹ cứ bị lúng túng về chính sách ngăn chặn làn sóng cộng sản cho nên lại bị sa lầy vào một cuộc chiến tranh phi nhân và vô vọng với cộng sản Việt nam, để rồi đến khi muốn tháo gỡ thì người Mỹ lại cũng vì không hiểu cách lý luận của người Việt nam nên đã bán đứng Miền Nam cho Cộng sản tại bàn hội nghị.

Người Trung hoa mặc dù đã từng cai trị dân tộc Việt nam một ngàn năm và một ngàn năm kế tiếp vẫn dùng cái ảnh hưởng văn hoá của mình để kiềm chế người Việt nam nằm trong qũy đạo của mình nhưng vẫn chưa hiểu tận tình lối lý luận của người Việt nam nên Ðặng Tiểu Bình mới có lời kết án Việt nam là kẻ phản bội để rồi xua quân trừng phạt trong chiến dịch đánh phá 7 tỉnh biên giới miền bắc của Việt nam năm 1979.

Ngay cả bây giờ, khi người Mỹ đòi hỏi phía cộng sản giải quyết vấn đề tù binh chiến tranh, hay khi người Tây phương đấu tranh với cộng sản về mặt Nhân quyền, họ vẫn không bao giờ hiểu được cách lý luận của người Việt nam nên mọi cuộc tranh luận với người cộng sản Việt nam vẫn luôn luôn gặp khó khăn bế tắc.


4.- KỲ ÐÀ CẢN MŨI


Năm 1945 toàn dân Việt nam đã vùng lên làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ phong kiến để thiết lập một xã hội dân chủ, nhưng sau đó đã bị những người Cộng sản cướp công và lèo lái đưa dân tộc vào con đường phiêu lưu của một cuộc đấu tranh sắt máu để thực hiện chủ nghĩa cộng sản, khiến cho đất nước bị tàn phá và lòng người thì ly tán.

Sau Hiệp Ðịnh Geneve 1954, người không Cộng sản có được một chỗ đứng và một cơ hội để xây dựng lại một xã hội dân chủ tại miền Nam nhưng lại không phát huy được chính nghĩa cho mình mà còn bị các thế lực ngoại bang chi phối gây chia rẽ, khiến cho hoài bão vẫn không thành mà còn vướng vào một cuộc chiến tranh tương tàn, để rồi cuối cùng lại bị chính những người từng được họ coi như là đồng minh phản bội và bán đứng.

Hơn hai mươi năm nữa đã qua đi kể từ ngày đất nước thống nhất dưới chế độ cộng sản, người cộng sản Việt nam cũng chưa hề mang lại được một tí tự do dân chủ và hạnh phúc cho dân tộc như lời họ hô hào, chẳng những thế, với cái lối lý luận thiếu khoa học, họ đã làm cho nền kinh tế càng ngày càng thêm lụn bại và xã hội ngày càng thêm băng hoại. Cho đến nay chế độ cộng sản trên thế giới đã bị sụp đổ vì tính chất lỗi thời của một lý thuyết không tưởng, nhưng người cộng sản Việt nam vẫn chưa cảnh tỉnh, cứ khư khư ôm lấy cái chủ thuyết lỗi thời và lý luận quẩn quanh để biện minh cho cái đầu óc hủ lậu và cố chấp của mình chứ không hề biết lý luận để tìm ra một giải pháp cho vấn đề chung của dân tộc.

Còn nhìn chung thì hơn nửa thế kỷ qua, cái khó khăn của những người không cộng sản là không thể dùng lý luận khoa học để đấu tranh với cộng sản và tranh thủ nhân tâm vì quần chúng luôn luôn thờ ơ với tất cả những gì có tính cách duy lý. Do đó mà người không cộng sản cũng chỉ loanh quanh với mớ lý luận con kỳ đà khiến cho không bao giờ thống nhất được tư tưởng để hành động, mà chỉ biết bài bác nhau để trở thành chia rẽ, từ đó hết bị người cộng sản lợi dụng thì lại bị các thế lực ngoại bang khuynh loát cho nên chỉ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng đành phải chạy ra nước ngoài làm kẻ lưu vong, biện bạch cho quá khứ và tiếp tục một số hình thức đấu tranh rời rạc.

Câu tục ngữ Việt nam "Kỳ đà cản mũi " thường được dùng để ám chỉ khi một người muốn tiến hành một công việc theo dự định thì lại bị một sự cản trở nào đó xuất hiện ngăn cản khiến cho công việc không tiến hành được. Nếu nhìn vào lịch sử dân tộc và căn cứ vào những sự kiện nêu trên, phải chăng chúng ta cũng có thể nói rằng chính cái tinh thần luận lý con kỳ đà và cái lý luận của người quân tử khôn này cũng là con "kỳ đà cản mũi " khiến cho con người Việt nam cứ bám lấy cái thân phận chứ không suy luận tìm ra được một lối thoát hợp lý cho dân tộc, mặc dù trong lòng mỗi người đều mang nặng một nỗi niềm tin yêu thiết tha đối với tiền đồ Tổ quốc.

Nếu chúng ta nhìn ra bao quát vấn đề thì cũng có thể nói cái lý luận của người quân tử khôn và luận lý con kỳ đà đã giúp cho dân tộc Việt nam không bị tiêu diệt hoặc đồng hóa qua suốt một ngàn năm bị Trung hoa cai trị hay là bị mất gốc khi phải sống chung đụng với những nền văn hóa khác, nhưng vì thiếu lý luận hợp lý nên đó cũng là cái điều cản trở con người Việt nam có thể hợp tác với nhau trên căn bản thỏa thuận của lý trí một cách hữu hiệu để cùng xây dựng một xã hội phù hợp với những lý tưởng tự do dân chủ hầu biến cải xã hội lạc hậu thành một xã hội tiến bộ khoa học và tiến tới sự hợp tác quốc tế dựa trên những nguyên tắc bình đẳng của thời đại mới hiện nay.

Nhiều người khi nhìn thấy những khủng hoảng tinh thần trong các xã hội tân tiến đã cho rằng chính cái tinh thần duy lý của Tây phương đã khiến cho con người cụ thể bị giản lược thành con người của những ý niệm trừu tượng nên đã đánh mất luôn cả cái giá trị của con người hiện sinh. Con người đã bị vong thân trong guồng máy xã hội để trở thành những công cụ chứ không còn là con người mang một ý nghĩa nhân bản thực sự. Tuy nhiên nếu con người không dùng lý trí suy luận theo luận lý để tổ chức xã hội hợp lý và hữu hiệu thì con người cũng không thể tiến bộ. 

ĐOÀN VĂN KHANH


No comments:

Post a Comment