1.- TIẾNG VIỆT PHONG PHÚ
Mỗi dân tộc đều
có một tiếng nói riêng để truyền thông với nhau và dân
tộc đó chỉ thực sự tồn tại trong bao lâu ngôn ngữ đó
còn tồn tại, cho nên có thể nói ngôn ngữ chính là sức
sống của một dân tộc. Dân tộc Việt nam cũng có một ngôn
ngữ riêng từ lâu đời và hiện nay vẫn đang được gần
80 triệu người Việt không những ở trong nước mà kể cả
người Việt sống ở nước ngoài xử dụng để truyền thông
với nhau. Ðiều đó cho thấy tiếng Việt đã gắn liền với
sự tồn vong của dân tộc Việt.
Theo các nhà ngữ
học thì tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ tượng hình và
độc âm. Chỉ cần nghe âm thanh là người ta cũng có thể
hình dung ra hình ảnh, cách thế của những sự việc, người
và vật được nói đến. Có thể nói tiếng Việt là một
ngôn ngữ vừa phong phú, vừa uyển chuyển, lại luôn luôn
có tính cách sáng tạo cho nên tiếng Việt rất giàu về từ
ngữ chỉ sự vật cụ thể cũng như các từ tượng thanh,
tượng hình, và các phó từ chỉ đặc tính của các sự vật
đó.
Cái khuynh hướng
dễ dãi và tùy tiện trong việc tạo từ được thể hiện
rất rõ trong tiến trình hình thành ngôn ngữ Việt. Khi người
dân Việt bành trướng về phương Nam, ngoài lý do ảnh hưởng
của phong thổ địa lý và sự pha trộn tiếng nói của những
dân tộc bản xứ bị người Việt chinh phục mà tiếng Việt
bị biến đổi về âm giọng, cũng như vì nhu cầu mà nảy
sinh ra nhiều từ mới để gọi tên các sự vật mới, tuy
nhiên cũng vì quá tùy tiện mà một số vật vốn đã có tên
rồi cũng được đặt thêm tên khác. Cùng một vật ở miền
Bắc được gọi bằng một tên này, người Trung có thể gọi
bằng một tên khác và người Nam lại dùng một tên lạ hơn
nữa. Riêng người Nam lại còn biến đổi thanh của âm gốc
để loại bỏ bớt tiếng phó từ bổ nghĩa đi kèm theo mỗi
khi cần xử dụng các từ được dùng làm đại từ nhân xưng
ngôi thứ ba. Do đó để nói ông ấy, người Nam gọi là "ổng",
và cứ thế mà "bả" thay cho bà ấy, "chỉ " thay cho chị ấy v.v...
Do sáng tạo theo
kiểu "thấy mặt đặt tên" và tính tùy tiện biến đổi nghĩa
của các từ theo điều kiện địa phương xưa kia mà tiếng
Việt có quá nhiều từ đồng nghĩa, rồi những từ này lại
đồng âm với từ có sẵn khác, hay có khi vẫn cùng là một
từ, nhưng ý nghĩa lại hiểu khác đi, thí dụ như người
Bắc nói "gầy" thì người Nam nói "ốm", người Bắc lại
hiểu nghĩa "ốm" là "bịnh" của tiếng Nam v.v... Thêm vào đó,
vào thời phong kiến trước đây, có nhiều từ, thường là
gốc chữ Hán, bị buộc đọc trại thành một âm khác vì
lý do kỵ húy tên các vua chúa, khiến cho cùng một chữ mà
có hai cách phát âm thí dụ như "hoàng" và "huỳnh"chẳng hạn...
Ðiều này đôi khi cũng dễ gây ra nhiều cái rắc rối hay
hiểu lầm trong vấn đề truyền thông giữa những người
gốc địa phương khác nhau, và là nguyên nhân gây ra kỳ thị
địa phương.
Tuy tiếng Việt
rất dồi dào từ ngữ cụ thể chỉ sự vật cũng như rất
giàu các phó từ chỉ đặc tính để mô tả sự vật thiên
nhiên cùng các hiện tượng, cũng như rất uyển chuyển trong
phương diện diễn đạt tình cảm hay các trạng thái tâm hồn
của con người, nhưng lại thiếu từ ngữ trừu tượng để
diễn đạt ý tưởng cho nên thường phải vay mượn từ chữ
Hán hay từ những ngôn ngữ khác. Tuy nhiên có một điều đặc
biệt là những từ ngữ này khi du nhập vào tiếng Việt thì
cũng đều được Việt hóa cho phù hợp với cách phát âm
của nguời Việt. Ngay cả bộ chữ Hán mà người Việt dùng
cũng được phát âm theo cách riêng của mình. Tuy nhiên vì
tiếng Hán Việt là một thứ tiếng Tàu không hoàn toàn là
Tàu mà ta cũng chẳng phải ta, do đó khi muốn giao thiệp với
người Tàu, nếu người Việt không biết một thứ ngôn ngữ
nói của Trung hoa thì lại phải dùng bút đàm chẳng khác nào
khi phải giao thiệp với người Cao ly hay người Nhật bản
là những dân tộc cùng dùng một chuyển ngữ chung là Hán tự.
Ngôn ngữ Việt
cũng như ngôn ngữ Trung hoa đều là tiếng độc âm, nhưng
tiếng Việt nói xuôi còn tiếng Tàu nói ngược. Người Việt
nói cái áo xanh nhưng người Tàu lại nói theo thứ tự tiếng
phó từ bổ nghĩa đi trước tiếng danh từ chỉ sự vật.
Chính vì thế mà khi tạo từ ngữ kép gốc chữ Hán thì thường
tuân theo trật tự của ngôn ngữ Trung hoa, nhưng khi ghép các
từ kép này vào câu thì người Việt có khi lại áp dụng
cái trật tự của tiếng Việt. Mặc dù vậy, cái trật tự
này không hẳn là luật nhất định mà đôi khi cũng có những
trường hợp có thể nói "trưởng ty" hay "ty trưởng",
"Từ
điển Văn học Việt nam" hay "Việt nam Văn học Từ điển"
đều được cả.
Ngoài ra tiếng
Việt lại có một đặc điểm mà các ngôn ngữ khác không
có, đó là cách nói lái và sự xử dụng tiếng đệm. Khi
nói lái người ta phải chọn một cụm hai hoặc ba tiếng rồi
hoán vị các phụ âm hoặc các thanh của những tiếng đó
cho nhau. Tiếng lái có khi là tiếng có nghĩa nhưng có khi không.
Câu "con cá đối nằm trong cối đá" thì tiếng lái có nghĩa,
nhưng thí dụ "con gà" nói lái "ca gòn" thì chẳng có nghĩa
gì cả.
Còn tiếng đệm
là những tiếng thường được ghép thêm vào sau một tiếng
gốc để làm rõ nghĩa thêm cho tiếng gốc hoặc có khi chỉ
nhằm tạo thêm âm vận cho tiếng nói, do đó tiếng đệm có
thể là một tiếng có nghĩa như "nhà cửa", "sách vở"...,
hoặc có khi làm tăng hay giảm nghĩa của tiếng gốc như "nằng
nặng", "buồn buồn", "sạch sành sanh"..., nhưng cũng có khi
chỉ là tiếng thêm vào cho tiếng gốc nghe bớt cộc mà thôi
thí dụ như "cơm kiếc", "chơi bà lơi xơi" v.v... Tuy nhiên tất
cả tiếng đệm thêm vào cũng chỉ dựa vào một âm vận theo
thói quen và tùy thuộc vào sự thẩm âm của người nghe chứ
không có một quy luật rõ rệt.
2.- LƯỠI KHÔNG XƯƠNG NHIỀU ÐƯỜNG LẮT LÉO
Tục ngữ Việt nam
có câu: "Lưỡi không xương nhiều đừng lắt léo". Dĩ nhiên
con người nói được là nhờ cái lưỡi nhưng câu nói trên
nhắm vào nghĩa bóng, ý nói con người muốn nói xuôi hay nói
ngược cách nào cũng được vì chân lý là cái không có hoặc
không ai nắm được. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về cái tiếng
nói mà người dân Việt đã nói từ hơn bốn ngàn năm nay,
nhiều lúc tôi lại đâm ra thắc mắc không biết có phải
vì nhờ cái lưỡi uốn éo dễ dàng mà tiếng Việt trở nên
phức tạp và lắt léo vô cùng hay không?
Ðể thấy sự
phức tạp của tiếng Việt, chỉ cần nghe qua cách xưng hô.
Chẳng hạn, khi ta nghe một đôi nam nữ xưng hô với nhau từ
lúc họ xử dụng cụm đại từ nhân xưng ông-tôi, hoặc cô-tôi,
sau đó đổi qua anh-tôi, hoặc em-tôi, rồi chuyển thành anh-em,
ta cũng có thể hiểu ngay tiến trình liên hệ tình cảm giữa
hai người này đối với nhau như thế nào. Cũng thế, khi nghe
các cụm đại từ nhân xưng từ ông-tôi biến qua mày-tao v.v...
hay ngược lại, là người nghe có thể hiểu được những
chuyển biến trong thái độ. Ðối với cách dùng đại từ
ngôi thứ ba cũng thế. Ðiều này không những làm cho người
ngoại quốc học tiếng Việt cảm thấy rắc rối mà đôi
khi cũng làm cho chính người Việt nam lúng túng khi họ chưa
xác định được vai vế, thái độ hay tình cảm đối với
người đối thoại.
Ngoài đặc tính
giàu âm thanh và ngữ điệu, tiếng Việt lại không bị gò
bó trong những quy luật chặt chẽ nên có đặc tính rất lắt
léo, do đó mà người xử dụng có thể biến hóa cho phù hợp
với nhu cầu diễn đạt của mình.Ðiều này giúp cho người
Việt nam không những dùng ngôn ngữ để truyền thông mà còn
có thể biến ngôn ngữ thành một phương tiện giải trí như
là nói lái, nói bằng một phụ âm, dùng tiếng đồng âm dị
nghĩa, nhại tiếng ngoại quốc, hoặc dựa vào các hình thức
trên để làm thành những câu đố mua vui ...
Hình thức giải
trí bằng ngôn ngữ thông thường nhất là nói lái. Ngoại
trừ những cụm từ cùng một âm vận với nhau thí dụ "thắc
mắc" khi hoán vị các phụ âm không tạo ra sự biến đổi
thì không thể nói lái, còn các cụm từ có hai âm vận khác
nhau thì đều có thể nói lái được. Thí dụ như nhà thơ
Bùi Giáng cũng có lần xử dụng cách nói lái này để ký
tên một cách hài hước dưới một bài thơ của mình như sau:
"Bùi văn Giáng, Bàng văn Giúi, Búi văn Giàng, Báng văn
Giùi..." Riêng nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì đã xử dụng rất
tài tình những tiếng lái trong thơ của mình để khi đọc
xuôi thì nghe ra thanh nhưng nếu lái lại thì lại hiểu thêm
ra nghĩa tục, nhờ thế mà thơ Hồ Xuân Hương chiếm được
một chỗ đứng độc đáo trong giòng văn học tiếng Việt.
Ngoài mục đích
mua vui, tạo khôi hài, tạo thêm một nghĩa khác cho câu nói,
người ta còn có thể xử dụng cách nói lái để ngầm ý
xỏ xiên hay khích bác một cách kín đáo. Có những cách đơn
giản dễ nhận như câu: "Ðem hình bác lộng kiếng", nhưng
cũng có những câu phức tạp cần phải được giải thích
như câu chuyện về món ăn "đại phong" mà Trạng Quỳnh dâng
cho chúa: "Ðại phong là gió to, gió to thì đổ chùa, đổ chùa
thì tượng lo, tượng lo là lọ tương".
Ðôi khi sự nói
lái còn sâu sắc hơn do được phối hợp giữa chữ nghĩa
bác học với ngôn ngữ thông thường để có thể qua mặt
người bị chửi xỏ như bốn chữ "Ðại điểm Quần thần"
trong bức hoành phi mà các nhân sĩ Nam kỳ mừng Thủ tướng
Nguyễn Văn Tâm thời còn Tây. Nếu đọc qua và hiểu theo nghĩa
thông thường thì bốn chữ trên có ý khen ngợi một người
có công lớn đối với nước nhưng nếu khi dịch sát từng
tiếng câu trên sẽ là "Chấm to bầy tôi" và nói lái lại
thành ra "Chó Tâm bồi Tây" là một câu chửi xỏ.
Văn học phản
kháng trong dân gian cũng thường hay dùng tính cách lắt léo
của ngôn từ để sáng tác ra những câu nói vừa mua vui, vừa
mỉa mai châm biếm hay biểu lộ sự chống đối một cách
bất bạo động như bài thơ truyền khẩu sau đây thời Việt
minh kháng chiến:
Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi
Chú khiêng lên hết chiến khu rồi
Thi đua sao cứ thua đi mãi
Kháng chiến lâu dài khiến chán thôi
Sống dưới chế
độ Cộng sản, người dân Việt cũng đã truyền tụng nhau
câu ca dao sau đây, mặc dù nội dung biểu lộ một nhận định
về lối sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng xét
kỹ ra thì đây cũng là một thái độ chung về chính trị
của người dân Việt từ xưa tới nay:
Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt
Lách lòn lươn lẹo lại lên lương
Cái cách nói chỉ
dùng một phụ âm này cũng thường được dùng cho mục đích
giải trí, như làm thơ, hoặc thi kể một câu chuyện mà chỉ
dùng một phụ âm nào đó thôi, thí dụ như:
Rầu rĩ râu ria ra rậm rạp
Rờ râu râu rụng, rờ rún rún rung rinh
Kể ra những cách
dùng ngôn ngữ để mua vui thì rất nhiều nhưng nói chung tất
cả đều dựa trên đặc tính độc âm và sự trùng âm cùng
với sự lỏng lẻo của cấu trúc các cụm từ, mà tiếng
Việt lại có quá nhiều từ tuy đồng âm nhưng nghĩa lại
khác nhau, có khi lại tương phản nhau, lại còn cách dùng pha
lẫn tiếng nôm và tiếng gốc chữ Hán hay chữ ngoại quốc,
khiến cho một câu nói có thể hiểu theo nhiều cách, tùy theo
người nghe và tuỳ theo hoàn cảnh, do đó mà người Việt
vẫn có tính thích chơi chữ.
Trong câu đố "rùa bò mấy chân?" người được đố có thể hiểu tiếng
"bò" như là một động từ nên đáp là bốn, nhưng người
đố để tranh phần thắng sẽ giải thích "bò" hiểu theo nghĩa
"bò" đây tức là con bò thì khi tính số chân của cả hai
con trên cọng lại phải là 8 mới đúng. Kể ra thì cái lý
luận này hoàn toàn dựa trên tính cách mập mờ của từ ngữ
và lối nói nên không thể bảo đó là chính xác, tuy nhiên
cả người đố lẫn người được đố chỉ nhằm mục đích
mua vui nên cũng không ai lấy đó làm điều tranh cãi để tìm
đâu mới thực là chân lý. Ðiều này phản ảnh cái tinh thần
của người dân Việt không quan tâm đến luận lý để tìm
ra chân lý mà chỉ nhìn xem hiện tượng để biết cách sống
sao cho phù hợp thôi.
Cái triết lý
sống này được thể hiện qua câu tục ngữ mà nhiều người
tương truyền đó là sấm Trạng Trình: "Khôn chết, dại chết,
biết sống". Ngu dại thì bị người ta đè đầu đè cổ,
bóc lột cho tới chết, mà khôn thì cũng bị người ta tìm
cách hãm hại vì sợ tranh giành, chỉ có biết thì mới sống
yên ổn. Nhưng "biết" là biết như thế nào thì lại không
ai xác định được. Có lẽ do mỗi người tự tìm lấy một
phương cách xử thế sao cho thích hợp với hoàn cảnh riêng
của mình. Có lẽ do thái độ hiện sinh này mà người dân
Việt chỉ nhìn vào hiện tượng để tìm cách thích nghi chứ
không đặt vấn đề đi tìm nguyên ủy hay bản thể của sự
vật để giải thích sự vật. Ngôn ngữ là phản ảnh tâm
hồn con người cũng vì thế mà được phát triển theo chiều
hướng mô tả cảm xúc chứ không lý luận trừu tượng.
Trong suốt quá
trình lịch sử, trải qua bao nhiêu lần bị các dân tộc khác
đô hộ, phải tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ khác nhau và
bị các ngôn ngữ này khống chế về mặt chính trị, nhưng
người dân Việt không những vẫn duy trì tiếng nói của mình
mà còn dùng tiếng nói của mình để nhại ngôn ngữ của
kẻ thống trị như một sự mua vui, hay có khi để qua mặt
kẻ thống trị. Bằng cách nói lái hay dùng những tiếng có
âm thanh hao hao với một thứ tiếng ngoại quốc nào đó, người
dân Việt đã đùa bỡn với tiếng Tàu, tiếng Tây, tiếng Nhật, tiếng
Nga... Vào thời các chú chệc còn làm vương làm
tướng, để nhại tiếng Tàu người dân Việt chỉ việc thêm
tiếng "tỉn" sau mỗi âm tiếng Việt rồi nói lái từng cặp
một thí dụ như: "mìn tẩy đin tỉ đin tẩu đín tỏ", nói
lên nghe có âm hưởng như tiếng Tàu nhưng thực ra chỉ là "mầy đi đâu đó". Khi mấy ông Tây bà đầm sang
An-nam "khai
hóa" cho dân An-nam-mít thì để nhại tiếng Pháp người ta
nói "ít-xơ-măng" (ăn xơ mít) v.v... Ðàn anh Liên xô qua Việt
nam giúp Việt nam xây dựng xã hội chủ nghĩa thì để nhại
tiếng Nga người ta mời đồng chí Móc-cu-ra-đớp đi "xô xích
le" (xe xích lô). Cũng có khi người ta lại nhại người ngoại
quốc nói tiếng Việt để tạo thành những câu nói theo một
nghĩa này nhưng do cách phát âm lơ lớ của người ngoại quốc
khiến cho một số từ nghe ra như một từ khác khiến người
nghe có thể hiểu ra một nghĩa khác có tính chất khôi hài.
Như vậy thì quy
luật tiếng Việt lỏng lẻo là do nơi con người Việt nam
chỉ quan tâm đến hiện tượng hơn là đi tìm bản chất cho
nên nhìn thấy cái nhu cầu diễn đạt tình cảm đối với
sự vật mới là chính yếu, mà các trạng thái của tâm hồn
thì lại vô cùng uyển chuyển và phức tạp, không bị gò
bó theo quy luật nhất định, do đó mà ngôn ngữ cũng trở
nên phức tạp và không có quy luật rõ ràng. Khi một người "chẻ sợi tóc làm tư " thường không phải người đó muốn
phân tích tận cùng một sự vật theo suy luận để tìm ra
chân lý mà chỉ nhằm khai thác những khía cạnh lắt léo của
sự vật để tìm bắt cho được khía cạnh nào đó thích
hợp với chủ đích tình cảm của mình mà thôi.
3.- MẸ HÁT CON KHEN HAY
Tiếng Việt còn
một điểm đặc biệt là mặc dù ngôn ngữ nói đã có từ
thời Thượng cổ và phát triển đến một trình độ cao,
nhưng qua đến thời kỳ có sử, ngôn ngữ viết vẫn không
xuất hiện. Hệ thống chữ quốc ngữ đang được người
Việt hiện nay xử dụng chỉ mới nảy sinh gần đây do hoàn
cảnh lịch sử đưa đẩy mới có. Có lẽ vì thế mà trước
đây, nhà văn phạm học Phạm Duy Khiêm khi soạn bộ Văn Phạm
Việt Nam, đã từng gọi tiếng Việt là một thổ ngữ (dialect).
Sự thiếu một
hệ thống chữ viết trước đây có lẽ là hậu quả của
sự kiện người Trung hoa đô hộ đằng đẵng suốt một ngàn
năm. Với manh tâm đồng hóa dân tộc Việt, người Tàu sang
cai trị đã mang theo nền văn hoá của họ sang truyền bá cho
dân Việt, bắt người Việt phải học chữ Hán, dùng Hán
văn làm chuyển ngữ, tiếng Việt chỉ còn là phương tiện
truyền thông giữa người Việt với nhau như là một phương
tiện trao đổi niềm an ủi cảm thông của những kẻ cùng
chung cảnh ngộ mà thôi, do đó mà người dân Việt nam hầu
như không còn cơ hội để phát minh một hệ thống ký hiệu
riêng để ghi chép ngôn ngữ của mình.
Ngoài ra, có lẽ
do ảnh hưởng của một ngàn năm bị đô hộ và sức mạnh
văn hóa của kẻ thống trị lấn át mà mãi mấy trăm năm
sau khi đã giành lại được quyền tự chủ, người dân Việt
vẫn không quan tâm đến việc tạo cho mình một nền văn học
riêng. Mãi đến thế kỷ 13, Hàn Thuyên mới mượn chữ Hán
để sáng chế ra chữ Nôm, mở đầu cho thời kỳ văn chương
chữ nôm thành hình, nhưng vì muốn đọc được chữ nôm lại
phải biết chữ Hán cho nên đó cũng là một trở ngại khiến
cho hệ chữ viết này khó trở thành phổ cập. Có lẽ vì
thế mà cả Hồ Qúy Ly hay vua Quang Trung trước kia khi đề
xướng việc dùng chữ Nôm thay thế cho chữ Hán làm chuyển
ngữ đều không thành mà còn bị chống đối.
Riêng về cách
viết theo mẫu tự La tinh thì mãi tới thời cận đại, khi
các giáo sĩ Tây phương đến Việt nam để truyền giáo muốn
ghi lại kinh giảng bằng tiếng Việt cho con chiên bản xứ
thì nhận thấy chữ nôm quá rắc rối và khó học cho nên
giáo sĩ Alexandre de Rhodes mới xử dụng mẫu tự La tinh để
ký âm ngôn ngữ Việt. Do tính cách tiện dụng và dễ học
của cách viết này mà qua thế kỷ 20 cách viết tiếng Việt
theo lối phiên âm này được chấp nhận như là chữ Quốc
ngữ và mở đường cho nền văn học tiếng Việt phát triển.
Tuy nhiên khi nhìn lại quá trình hình thành của chữ quốc
ngữ có phần nào gắn liền với sự mở đường cho thực
dân Pháp cai trị Việt nam thì dân gian đôi khi cũng mai mỉa:
Tiếng Quốc ngữ, chữ nước ta
Ông cố ông cha lập ra...
Dĩ nhiên ông cố
ông cha nói đây không phải là các tổ tiên người Việt mà
là các ông cố đạo người Tây đem Phúc âm của Chúa đến
rao giảng cho con cháu Tiên Rồng. Nhưng cũng chính nhờ thế
mà dân Việt nam là dân châu Á đầu tiên và duy nhất xử
dụng chữ viết theo mẫu tự La tinh. Ðiều này làm cho nhiều
người lầm tưởng tiếng Việt dễ học. Sự thực do chữ
viết có tính cách phiên âm nên đối với bất cứ ai biết
mẫu tự La tinh và nắm được quy luật ký âm tiếng Việt
là người ta có thể viết chính tả hay đọc những điều
đã được viết ra một cách dễ dàng. Tuy nhiên để biết
và hiểu tiếng Việt một cách thấu suốt thì không phải
là chuyện dễ.
Mặc dù theo với
nhu cầu tiến hóa của thời đại, tiếng Việt có khả năng
vay mượn và đồng hóa ngôn ngữ ngoại quốc thành ngôn ngữ
của chính mình để làm giàu cho cái kho ngữ vựng về mọi
lãnh vực, nhờ đó mà có thể dùng để truyền đạt khoa
học và tư tưởng, nên vẫn tiếp tục phát triển để tồn
tại như một sinh ngữ, nhưng về phương diện khoa ngôn ngữ
học thì cho tới ngày nay tiếng Việt vẫn chưa có được
một bộ tự điển tiếng Việt đầy đủ hoặc sự chuẩn
định chính xác nào cả. Mọi sự tiếp thu hay tạo từ mới,
biến hóa âm vận cũng như các quy luật về văn phạm vẫn
dựa vào sự thỉnh âm và chấp nhận của mọi người một
cách mặc nhiên.
Ngoài ra, vì đặc
tính lắt léo, thiếu tinh thần luận lý Tây phương khiến
cho tiếng Việt không thích hợp với ngôn ngữ ngoại giao hay
nghiên cứu khoa học, cho nên từ xưa tới giờ dù có bài ngoại,
người dân Việt vẫn sính học ngoại ngữ và cần học ngoại
ngữ vì lý do cần giao tiếp với thế giới hoặc khi cần
mở mang kiến thức. Kể ra cũng là một điều nghịch lý khi
một người có thể tự hào về đất nước có bốn ngàn
năm văn hiến với một ngôn ngữ phong phú và lâu đời, nhưng
nếu như chỉ biết có mỗi một thứ tiếng mẹ đẻ thì cũng
chưa hẳn thấy mình là người trí thức đáng tự hào.
Riêng về mặt
văn học mà nói thì nhờ đặc tính dồi dào của âm từ và
ngữ điệu trong tiếng Việt mà ca dao rất phát triển và tạo
cho dân Việt có được một kho tàng ca dao rất phong phú. Cũng
do đặc tính dồi dào âm điệu và sự uyển chuyển của tiếng
Việt giúp cho việc diễn đạt các trạng thái tâm hồn càng
tinh tế mà về mặt văn chương, bản dịch Chinh Phụ Ngâm
bằng tiếng nôm của bà Ðoàn Thị Ðiểm đã lấn lướt được
bản chính viết bằng Hán văn của Ðặng Trần Côn. Nhưng
chính Nguyễn Du mới là người đã xử dụng những đặc tính
này của tiếng Việt một cách tài tình trong bút pháp khi ông
sáng tác truyện Kiều. Chính vì nhờ vào những lời thơ trong
sáng và có một sức truyền cảm rất mạnh mà truyện Kiều
đã rất phổ cập trong dân chúng. Ðó cũng là lý do khiến
cho trước đây Nguyễn Văn Vĩnh từng nói: "Truyện Kiều còn,
tiếng ta còn; tiếng ta còn, dân tộc ta còn; dân tộc ta còn,
nước ta còn."
Tuy nhiên đối
với người ngoài thì mặc dù văn học Việt nam kể từ thời
chữ Nôm cho tới nay cũng có những tác phẩm có thể góp mặt
trên văn đàn thế giới nhưng vì người ngoại quốc ít có
ai chịu học tiếng Việt để nghiên cứu văn học Việt, còn
những tác phẩm tiếng Việt thì cũng do những cái rắc rối
và đặc tính lắt léo của ngôn từ khiến cho không thể nào
dịch hết ý nghĩa hoặc có khi còn không thể nào dịch được
như các tiếng lái, tiếng chơi chữ cho nên cũng ít có ai dám
dịch các tác phẩm tiếng Việt ra tiếng ngoại quốc. Vì lẽ
đó mà những tác phẩm văn chương viết bằng tiếng Việt
thường không được thế giới biết đến.
Tuy nhiên, đứng
về mặt ngôn ngữ nói mà nhận xét thì tiếng Việt đã chứng
tỏ có khả năng quyến rũ rất lớn đối với những người
nói được tiếng Việt. Mặc dù qua bao nhiêu thế kỷ bị
người Tàu cai trị, văn hóa Tàu xâm nhập vào mọi khía cạnh
của đời sống người dân Việt nhưng con cháu những người
Tàu sang Việt nam lập nghiệp thì vì lý do phải học nói tiếng
Việt để có thể tiếp xúc làm ăn với người Việt, đều
dần dần trở thành người Việt nam chứ không còn là người
Tàu nữa. Ðiều này không những chỉ xảy ra cho người Trung
hoa mà ngay cả những dân tộc bị dân Việt nam chinh phục
như Chàm, Khờ me cũng thế.
Mặc dù từ xưa
có một số nhà nho, rồi sau này một số nhà Tây học do chịu
ảnh hưởng quá nặng của các nền văn hóa ngoại lai nên
cũng đã từng chê bai tiếng Việt là "nôm na là cha mách qué",
nhưng nếu gạt bỏ cái tinh thần luận lý để sống với
tâm hồn thì bất cứ ai đã quen với tiếng Việt đều thấy
tiếng Việt vẫn có những cái hay và cái đáng yêu mà không
một ngôn ngữ nào có thể thay thế. Chính vì tính chất truyền
cảm đó của tiếng Việt mà người dân Việt qua bao đời
nay vẫn thấy mình gắn bó với thứ ngôn ngữ ấy mỗi khi
muốn tìm đến với nhau trong tình tự dân tộc:
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn quen
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment