Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Saturday, February 9, 2013

KHUNG CỬA HẸP [5] - A. GIDE

Truyện dịch

CHƯƠNG V

Tôi không tìm thấy ý nghĩa nào khác cho cuộc đời của mình ngoài tình yêu, tôi bấu víu vào đấy, không chờ đợi gì cả, và cũng không muốn chờ đợi điều gì khác không phải do người yêu mang lại cho tôi. 

Qua ngày hôm sau, tôi sửa soạn đến thăm nàng thì dì tôi chận tôi lại và đưa cho tôi lá thư này mà dì vừa nhận được: 

Cơn chấn động của Juliette mãi tới gần sáng nay mới bớt, nhờ dùng  thuốc theo toa bác sĩ. Cháu van xin anh Jérôme đừng tới đây trong vài hôm. Juliette có thể nhận ra tiếng bước chân, hoặc giọng nói của anh ấy, mà em cháu thì đang cần được hoàn toàn  yên tĩnh. 


Cháu sợ  tình trạng  của  Juliette sẽ giữ cháu ở nhà lâu. Nếu cháu không gặp lại Jérôme trước khi anh ấy lên đường, thì xin cô  hãy nói với anh ấy là   cháu sẽ viết  thư cho anh ấy…

Lệnh cấm chỉ nhắm riêng tôi. Còn dì tôi, còn mọi người thì cứ tự do đến nhấn chuông nhà cậu Bucolin; và dì tôi định sáng nay sang ngay bên ấy. Tiếng động mà tôi có thể gây ra? Cái cớ sao mà tấm thường thế… Thôi mặc kệ! 

- Vâng. Được rồi. Cháu sẽ không đi nữa. 

Không được gặp nàng ngay lúc này thì cũng rất áy náy; tuy nhiên tôi cũng ngại sự gặp mặt này; tôi sợ nàng sẽ đổ cho tôi chịu trách nhiệm về tình trạng xảy ra cho Juliette, và như thế thà không gặp còn hơn là gặp để thấy nàng tức giận. 

Nhưng ít ra tôi cũng muốn được gặp lại Abel. Vừa đến cửa nhà anh ta, một bà vú đưa cho tôi mảnh giấy: 

Tôi để lại cậu vài chữ  để cậu đỡ lo lắng về  tôi. Ở  lại Havre, vẫn còn quá  gần với Juliette,  tôi không tài nào chịu nổi. Tôi đã lên tàu đi Southampton chiều hôm qua ngay sau khi tạm biệt cậu. Tôi sẽ ở nhà S…tại Londres  cho đến hết những ngày lễ này. Chúng ta sẽ gặp lại nhau tại trường.

…Cùng môt lúc tôi hụt luôn tất cả những kẻ tôi định đến cầu cứu. Không muốn kéo dài thời gian lưu lại đây chỉ còn dành cho tôi không gì ngoài sự đau khổ, tôi về Paris trước ngày nhập học. Tôi chỉ còn hướng nhìn về Thiên Chúa, về đấng “là nguốn của mọi an ủi thưc sự, mọi ân sủng và mọi hạnh phúc toàn thiện”. Tôi xin dâng lên Ngài sự đau khổ này. Tôi nghĩ rằng Alissa cũng chạy đến Ngài để cầu cứu và ý nghĩ rằng nàng cũng đang cầu nguyện làm tôi càng can đảm và hứng khởi trong lời cầu nguyện.
Một thời gian dài trôi qua. chỉ còn suy tưởng và học hành, không có biến cố nào khác xảy ra ngoại trừ những lá thư của Alissa, và những lá thư tôi viết lại cho nàng. Tôi đã lưu giữ tất cả thư từ của nàng; ký ức của tôi từ nay trở đi có lẫn lộn thì đã có những lá thư ấy để sửa lại cho rõ hơn... 

Nhờ dì tôi - và đầu tiên chỉ có mình dì - mà tôi còn được tin tức ở Havre, nhờ dì tôi được biết tình trạng đau buồn của Juliette đã gây lo lắng như thế nào trong những ngày đầu. Cuối cùng mười hai ngày sau khi tôi đi, tôi mới nhận được mẩu thư nhỏ này của Alissa: 

Anh Jérôme thân yêu, hãy tha lỗi cho em  vì đã không viết thư cho anh sớm hơn. Bệnh tình của Juliette không cho em đủ thì giờ. Từ ngày anh đi, em gần như không lúc nào rời Juliette. Em có nhờ dì Félicie cho anh biết  tin tức và em chắc là dì đã làm. Vậy thì chắc  anh cũng đã biết  tình trạng Juliette đã thuyên giảm từ ba ngày nay. Em cảm tạ Thiên Chúa nhưng chưa dám mừng vội.

Cả Robert nữa, mà trước tới giờ tôi ít nhắc đến, cũng đã về Paris sau tôi vài ngày và cho tôi những tin tức về hai người chị. Vì hai cô chị mà tôi để tâm chăm sóc cậu ta chứ không phải vì khuynh hướng tự nhiên của tính nết tôi đưa đẩy; mỗi lần cậu ta được rảnh rỗi việc học hành ở trường đại học Canh nông mà cậu ta đang theo học, tôi lại lo săn sóc và tìm cách giúp cậu ta tiêu khiển thì giờ.  

Nhờ Robert nên tôi biết được nhiều điều mà tôi không dám hỏi Alissa hoặc dì tôi: Édouard Teissières đã thường xuyên lui tới hỏi thăm tin tức Juliette nhưng cho đến khi Robert từ giã Havre, nàng vẫn chưa chịu gặp lại ông ta. Tôi cũng biết rằng từ ngày tôi đi Juliette đã giữ một mực im lặng đối với chị mình và không có gì lay chuyển nổi nàng. 

Rồi nhờ dì Félicie, ít lâu sau đó tôi hay tin lễ đính hôn của Juliette, mà tôi linh cảm rằng Alissa thì mong là sẽ chóng đổ vỡ, nhưng chính Juliette thì lại đòi  làm hôn lễ chinh thức càng sớm càng tốt. Mọi khuyên bảo, ngăn cản, van nài để chống lại đều không lay chuyển nổi sự quyết định đã chắn ngang tâm trí nàng, bịt mắt nàng, vây kín nàng trong sự im lặng…

Thời gian cứ trôi qua. Tôi chỉ nhận được toàn những mẩu thư càng tuyệt vọng của Alissa mà tôi không còn biết viết sao cho nàng. Sương mù mùa đông dày đặc vây phủ tôi; ngọn đèn học, và mọi nhiệt tâm trong tình yêu, và của đức tin, than ôi! cũng không xua đi nổi cái đêm tối và sự lạnh lẽo trong lòng tôi. Thời gian cứ trôi qua. 

Rồi thình lình một buổi sáng mùa xuân có một bức thư của Alissa gửi cho dì tôi lúc ấy không có mặt ở Havres, - mà dì tôi gửi lại cho tôi, và tôi trích ra đây  vài đoạn có thể giúp làm sáng tỏ câu chuyện này: 

... Cô thấy cháu ngoan chưa; và như  đã hứa với cô nên cháu cũng  đã  tiếp ông Teissières; cháu có nói chuyện nhiều với ông ta. Cháu có nhận thấy  ông ta tỏ ra hoàn toàn về mọi phương diện, và cháu gần như  tin rằng cuộc hôn nhân này sẽ không đến nỗi gây nên đau khổ  như ý cháu e sợ lúc  ban đầu. Chắc chắn là  Juliette không yêu ông ta, nhưng càng ngày cháu càng thấy ông ta không phải không xứng đáng để  được yêu. Ông ta bàn đến tình huống này với một cái nhìn sáng suốt và tỏ ra không lẫm lẫn về  tính khí em của cháu, nhưng ông ta lại  rất tin tưởng nơi hiệu lực tình yêu của mình, và cho rằng không có gì mà lòng trung thành của ông ta không thắng nổi. Nói vậy để cô thấy quả ông ta đã yêu say đắm.

Thực thế, cháu rất cảm động thấy Jérôme cũng đã  chăm sóc đến Robert. Cháu nghĩ rằng anh ấy làm thế vì bổn phận thôi, chớ tính khí của Robert không tương hợp với anh ấy – và cũng có thể là để làm cháu vui lòng – nhưng chắc hẳn anh ấy cũng nhận thấy rằng trách nhiệm mà mình đảm nhận càng nặng thì tinh thần của mình càng được hun đúc  và nâng cao. Đó là những  suy ngẫm cao cả! Xin cô đừng cười cháu cô nhé,  bởi vì đó chính là những tư  tưởng đã nâng đỡ cháu và giúp đỡ cháu có thể cố  gắng nhận ra  được rằng cuộc hôn nhân của Juliette như là một điều hay. 

Lòng ân cần ưu ái của cô đối với cháu thật êm dịu biết bao!... Nhưng xin cô đừng tưởng là cháu đau khổ; trái lại, cháu gần như có thể quả quyết rằng; chính sự thử thách vừa mới dày xé Juliette đã có một hậu quả gián tiếp  nơi cháu. Lời Phúc âm mà cháu vẫn hằng lặp lại và cháu không mấy hiểu thì nay đột nhiên đã sáng tỏ cho cháu: "Vô phúc cho kẻ nào đặt  lòng tin cậy của mình vào con người". Trước khi tìm lại được câu ấy trong Thánh kinh, cháu đã được đọc lời ấy trên một tấm thiệp Giáng sinh mà Jérôme gởi cháu thuở anh ấy chưa đầy mười hai tuổi, và cháu vừa được mười bốn tuổi. Trên tấm ảnh ấy, bên cạnh bó hoa mà ngày ấy chúng cháu thấy đẹp vô cùng, có mấy dòng thơ minh giải của Corneille:

Mầu nhiệm nào kẻ chiến thắng trần gian
Nâng ta hôm nay hướng về Thiên Chúa?
Vô phúc thay cho kẻ chỉ biết xây
Trên con người nơi nương tựa cho mình

mà cháu thú thật là cháu vô cùng thích cái tiết đoạn  đơn giản của Jérémie. Chắc Jérôme khi chọn tấm thiệp ấy không mấy để ý đến lời thơ kia, nhưng nếu căn cứ  theo thư từ của anh ấy mà xét đoán  thì cháu tin rằng những khuynh hướng của anh ấy  ngày nay khá  giống của cháu, và mỗi ngày cháu hằng cảm tạ Thiên Chúa đã cùng một lúc kéo hai tâm hồn của hai chúng cháu về bên Ngài. 

Nhớ lời cô cháu chuyện trò, cháu cũng không viết thư cho anh ấy dài như trước, để không quấy rầy việc học hành của anh ấy. Chắc cô sắp  thấy cháu đang tự đền bù bằng cách nói về anh ấy càng nhiều hơn; sợ cứ tiếp tục mãi, cháu xin ngừng viết; lỡ một lần này thôi, xin cô chớ rầy la cháu nhiều.

Bức thư này gợi cho tôi biết bao là suy nghĩ! Tôi trách thầm sự can thiệp của dì tôi (câu chuyện đó là chuyện gì mà Alissa đã ám chỉ và làm cho nàng giữ yên lặng đối với tôi?) sự chú tâm vụng về khiến dì gửi lại lá thư cho tôi đọc! Nếu tôi đã khổ sở về sự im lặng của Alissa, ôi! có phải thà cứ để cho tôi không biết cái điều nàng không nói cho tôi biết còn tốt hơn vạn lần nàng viết chuyện ấy cho một người khác. Tất cả những gì làm tôi bực tức là đây: và lại còn nghe nàng kể một cách dễ dàng cho dì tôi những điều riêng tư nhất giữa hai chúng tôi, bằng cái giọng tự nhiên, sự bình tĩnh, sự trang nghiêm và sự vui vẻ hồn nhiên…

- Nhưng không, anh bạn đáng thương của tôi à! Không có gì làm cho cậu tức giận ngoài chuyện cậu biết rằng cái thư này nàng không chịu gửi cho cậu! Abel, anh bạn đồng hành hàng ngày của tôi bảo tôi. Abel là người duy nhất tôi có thể nói chuyện và người mà tôi tìm kiếm lời khuyên giải, trong những lúc cô đơn, cảm thấy mình yếu đuối, cần than thở cảm thông, nghi ngờ mình, và những khi bối rối, mặc dù bản tính anh ta và tôi rất khác nhau, hay có lẽ chính vì chỗ khác nhau ấy mà tôi càng thấy dễ giải bày...

- Hãy nghiên cứu kỹ lá thư này, anh ta nói và giở lá thư bày ra trên bàn viết của anh ta. 

Ba đêm trôi qua và tôi biết là về phía mình thì cũng đã thành ra bốn ngày! Tôi gần như cũng tìm ra một cách tự nhiên cái điều mà anh bạn tôi biết nói cho tôi:

- Về cặp Juliette Teissières, ta hãy bỏ mặc họ trong ngọn lửa tình, phải thế không? Chúng ta cũng thừa biết ngọn lửa ấy ra sao rồi! Hừ! Theo tôi thì Teissières có vẻ đáng là con bướm để cháy thiêu trong ngọn lửa ấy lắm...

- Dẹp cái mục ấy qua một bên, tôi nói, bực mình về lối đùa bỡn của anh ta. Xét qua phần khác đi.

- Phần khác? anh ta nói… Mọi phần khác là chỉ riêng cho cậu thôi! Cậu còn than van nỗi gì! Không một dòng, một chữ nào không nghĩ đến cậu. Có thể nói rằng nguyên trọn lá thư là viết để gửi riêng cho cậu thôi. Dì Félicie khi gửi nó lại cho cậu là làm đúng cái việc chuyển nó đến đúng người nhận thực sự, vì lỗi của cậu mà Alissa đành gửi cho bà cô, cũng như nàng có thể gửi cho một kẻ nào khác, chứ còn muốn nói chuyện với dì của cậu thì sao lại có cả thơ của Corneille! – Thật ra thì là thơ của Racine; - quả là nàng chỉ trò chuyện với cậu thôi, tôi nói thật đấy, chỉ với cậu thôi mà nàng mới kể lể như vậy. Cậu chỉ là một kẻ khù khờ nếu chưa đầy nửa tháng mà cô em của cậu không viết thư cho cậu cũng dài dòng, tự nhiên, và dễ thương như thế…

- Không dễ gì nàng sẽ làm!

- Cô nàng làm hay không là do nơi cậu. Cậu có muốn tôi khuyên cậu không? Đừng đả động gì nữa từ đây… thật lâu, chuyện tình yêu, chuyện hôn nhân giữa cậu và nàng ta, cậu không thấy từ khi xảy ra cái tai nạn cô em của nàng thì cô chị ghét nhất là nghe nói tới hôn nhân sao? Cứ nói chuyện tình anh em, nói mãi với nàng về chuyện Robert, một khi cậu còn kiên nhẫn lo chăm sóc cho cái thằng  ngốc ấy. Cứ tiếp tục làm đẹp ý cái phần lý trí của nàng; mọi sự sẽ theo sau. A! Nếu phải chi tôi mà được viết thư cho nàng thì khỏi phải nói!...

- Anh đâu xứng đáng để được yêu nàng.

Tuy thế, tôi vẫn theo lời khuyên của Abel, và quả đúng như lời anh ta, chẳng bao lâu thư của Alissa bắt đầu sinh động trở lại; nhưng tôi chỉ có thể hy vọng nàng thật sự vui vẻ, cũng như dẹp bỏ cái kiểu nói lấp lửng trước khi hoàn cảnh nếu không phải là hạnh phúc của Juliette được yên ổn. 

Tuy nhiên những tin tức Alissa cho tôi biết về em nàng đã tốt đẹp hơn. Hôn lễ của nàng sẽ cử hành vào tháng bảy. Alissa viết cho tôi rằng nàng nghĩ ngày ấy Abel và tôi còn bận học hành... Tôi hiểu ý nàng muốn chúng tôi không nên có mặt hôm đó là hơn và thế là viện cớ bận thi cử, chúng tôi chỉ gửi lời chúc mừng. 

Chừng mười lăm ngày sau cuộc hôn lễ này. đây là những gì Alissa viết cho tôi:

Anh Jérôme yêu dấu,

Biết không anh, hôm qua em đã sững sờ lúc giở tình cờ tập thơ dễ thương của Racine mà anh đã tặng, em đã thấy  lại ở đây bốn câu thơ trong tấm ảnh Giáng sinh cũ  mà em vẫn giữ đã mười năm nay trong quyển Thánh kinh.

Mầu nhiệm nào kẻ chiền thắng trần gian
Nâng ta hôm nay hướng về Thiên Chúa?
Vô phúc thay cho kẻ chỉ biết xây
Trên con người nơi nương tựa cho mình

Em cứ tưởng đó  là trích đoạn một bài minh giải về  Corneille, và thú thật là em không thấy tuyệt vời gì cho lắm. Nhưng rồi tiếp tục đọc bài ca vịnh  thứ IV, em gặp nhiều đoạn hay đến nỗi không thể kềm lòng được nên chép lại đây cho anh. Chắc chắn là anh đã biết rồi. nếu em căn cứ  vào những chữ tắt đánh dấu mà anh đã ghi ở lề sách, (thực thế, tôi có thói quen gieo rắc đầy sách vở của tôi cũng như của Alissa chữ đầu tiên của tên nàng ở những đoạn mà tôi yêu thích và muốn để cho nàng biết) Nhưng không sao! Em chép lại là vì vui cho em. Mới đầu em hơi bực mình thấy anh chỉ cho em những gì em nghĩ là mình đã khám phá ra, nhưng rồi cái tình cảm  xấu xa này đã nhường chỗ cho niềm vui khi nghĩ rằng anh cũng yêu thích những đoạn thơ ấy như em. Chép ra đây em cảm thấy như đang cùng anh đọc lại:

De la sagesse immortelle
La voix tonne et nous instruit:
...................

Đẹp làm sao! Anh Jérôme ạ, đẹp làm sao! Anh có thực sự thấy những vần thơ ấy cũng đẹp như em thấy không? Một câu ghi chú nhỏ của lần xuất bản trong tập sách của em nói rằng khi bà Maintenon nghe cô D’Aumale hát bài ca vịnh này đã bày  tỏ sự ngưỡng mộ, "nhỏ mấy giọt lệ" và yêu cầu nàng hát lại một phần bài ca vịnh này. Bây giờ em đã thuộc lòng rồi mà đọc đi đọc lại vẫn không chán. Em chỉ buồn một điều là không được nghe anh đọc cho em. 

Tin tức về đôi tân hôn đang đi du lịch vẫn rất tốt. Anh đã biết, Juliette vui thích Bayonne và Biarritz biết bao mặc dù trời nóng khủng khiếp. Rồi họ cũng đã  viếng thăm Fontarabie, ghé lại Burgos và đã qua lại rặng Pyrénées hai lần… Bây giờ thì l ại  từ Monserrat, Juliette viết về cho em một bức thư  đầy hứng thú. Hai vợ chồng còn định ở Barcelone thêm  mười ngày  nữa trước khi trở về Nimes nơi Édouard muốn về trước tháng chín để có thể tổ chức việc hái nho. 

Từ một tuần nay, cha em và em đã ở Fongueusemare để ngày mai, cô Ashburton sẽ đến, và Robert sẽ trở về vào khoảng bốn hôm nữa. Anh biết chứ, thằng nhỏ đáng thương lại hỏng thi, không phải bài thi khó  nhưng vị giám khảo hỏi nhiều câu kỳ cục làm cho nó luống cuống; em không thể nào tin rằng Robert lại chưa sẵn sàng, sau khi anh viết thư cho em biết sự hăng hái của nó, nhưng hình như vị giám khảo kia có vẻ như thích đùa dai cho học sinh bối rối chơi. 

Còn về những sự  thành  đạt  của anh thì em chỉ còn biết nói xin chúc mừng thôi vì điều ấy đối với em đã là  sự tất  nhiên. Em vẫn tin tưởng rất nhiều ở anh, Jérôme ạ! Hễ nghĩ tới anh, là lòng em thấy chứa chan hy vọng. Anh sắp có thể bắt đầu ngay bây giờ công việc mà anh đã nói với em chưa?

... Ở đây không có gì thay đổi cả trong vườn cũ, nhưng nhà thì  như vắng vẻ ra. Chắc anh đã hiểu vì sao em  yêu cầu anh năm nay đừng về chứ: em cảm thấy như thế có lẽ lại hay hơn,  em vẫn nhắc  mình điều ấy hằng ngày bởi vì em  cảm thấy buồn lâu ngày không gặp lại anh... Đôi khi không muốn mà em vẫn  tìm anh, em ngừng đọc, em bất chợt  quay đầu lại… Em tưởng chừng như anh đang ở  đó! 

Em tiếp tục viết nốt lá thư. Đêm đã khuya; mọi người đã ngủ yên, em còn thức để viết cho anh, trước khung cửa sổ mở; ngoài vườn  ngào ngạt hương thơm; khí trời ấm áp. Anh còn nhớ chăng, thủa chúng mình còn nhỏ, mỗi khi được thấy hay nghe một điều gì quá hay quá đẹp, thì chúng mình lại nghĩ: Xin cảm tạ Thiên Chúa  đã tạo dựng  ra... Đêm nay, em suy nghĩ với cả tâm hồn: Xin cảm tạ Thiên Chúa đã làm  cho  đêm nay đẹp làm sao! Và bỗng nhiên em ao ước có anh ở đây, cảm thấy đó, bên cạnh em, với một sự mãnh liệt đến nỗi có thể anh cũng đang cảm thấy như em. 

Vâng, anh nói rất đúng trong thư: sự chiêm ngưỡng trong những tâm hồn lành thánh  hòa lẫn với lòng biết ơn... Còn biết bao điều em muốn viết cho anh! Em nghĩ đến cái xứ sở huy hoàng kia  mà Juliette đã tả cho em nghe. Em nghĩ đến những xứ sở khác bao la hơn, huy hoàng hơn nữa và hoang vu hơn. Em chẳng hiểu vì sao thấy trong lòng dấy lên một niềm tin lạ lùng rằng có một ngày hai  ta sẽ cùng nhau ngắm nhìn một xứ sở huyền ảo nào đó...

Chắc bạn cũng dễ dàng tưởng tượng tôi đã đọc lá thư ấy với niềm vui sướng và thổn thức vì tình yêu biết bao. Rồi nhiều thư khác tiếp theo. Chắc chắn Alissa cảm ơn tôi đã không đến Fongueusemare năm nay, chắc chắn nàng đã năn nỉ tôi đừng tìm gặp lại nàng năm nay, nhưng rồi nàng hối tiếc vì sự thiếu vắng tôi; bây giờ nàng cầu mong tôi; trang thư nào cũng vang lên cùng một lời kêu gọi. Nhờ đâu tôi đủ sức cưỡng lại? Chắc chắn nhờ lời khuyên của Abel, nhờ sợ có thể bất thình lình làm tiêu tan niềm vui, và nhờ sự cứng rắn tự nhiên chống lại mọi cám dỗ của con tim. 

Tôi chép lại trong những thư tiếp theo tất cả những gì có thể giúp làm rõ câu chuyện này. 

Anh Jérôme yêu dấu.

Em òa lên mừng vui khi đọc thư anh. Em sắp trả lời  thư anh viết từ Orvieto, thì đồng thời lại có thư từ Pérouse và một lá khác từ  Assise. Tâm trí em cũng đang du lịch; chỉ thân xác em hình như  ở lại đây; thật thế, em theo anh trên những con đường trắng xóa ở Ombrie, em lên đường với anh buổi sáng, nhìn cảnh bình minh với một con mắt mới mẻ… Có thật anh đã lên tiếng gọi em từ  trên sân thượng Cortone? Em nghe thấy anh... Sao mà người ta khát thế trên vùng núi giáp miền Assise! Và ly nước của vị tu sĩ dòng Phan xi cô đã làm em  mát dịu biết bao! Ôi! Bạn của em ơi! Em nhìn mọi vật qua anh. Em yêu biết bao những gì anh đã viết cho em về thánh Phan xi cô. Vâng, điều cần tìm kiếm là một niềm phấn khởi tinh thần, có phải thế không, chớ không phải  một sự giải phóng tư tưởng... Điều này sẽ không xảy ra mà không có sự kiêu hãnh khả ố. Đặt cao vọng cho mình không phải để phản kháng mà là để phụng sự... 

Tin tức ở Nime mới tốt đẹp làm sao làm em tưởng như Thiên chúa cho phép em thả hồn theo niềm vui. Điều buồn duy nhất trong mùa hè này là tình trạng của cha em; mặc dù em hết lòng chăm sóc, người vẫn cứ buồn; hay đúng hơn hễ  em để người một mình là người lại thấy buồn ngay, và càng ngày càng khó làm cho người khuây khỏa hơn. Tất cả niềm vui thiên nhiên chung  quanh giờ đây  nói lên một thứ ngôn ngữ đã trở thành xa lạ với người; và người cũng không còn cố gắng lắng nghe nữa. Cô Ashburton vẫn khỏe mạnh. Em đọc cho hai người nghe những bức thư của anh; mỗi bức thư  đủ là đề tài cho mỗi người chuyện trò trong ba ngày; và bấy giờ lại đã có một thư mới...

... Robert rời  gia đình hôm kia; nó sẽ dùng thời gian cuối của kỳ nghỉ  hè ở chơi tại nhà R… bạn nó mà cha là một chủ trang trại kiểu mẫu. Quả thật cái nếp sống của cả nhà ở đây chả có gì vui đối với Robert cả. Em chỉ còn biết khuyến khích nó trong dự án của nó khi nó nói khởi hành… 

...Em còn biết bao chuyện để  nói với anh;  em khao khát được nói chuyện  không ngừng! đôi khi em không tìm ra chữ ra ý rõ rệt nữa, - chiều nay em viết mà như đang  mơ – chỉ giữ một cảm giác gần như ngột ngạt  của một sự phong phú vô biên muốn cho, và mong được nhận.

Chúng ta đã làm cách nào để cho mình im lặng suốt mấy  tháng dài? Chắc là chúng ta ngủ một  giấc mùa đông. Ôi! cầu xin  cho mùa đông vĩnh viễn qua đi, cái mùa đông khủng khiếp của im lặng! Từ ngày gặp lại anh trong thư từ, cuộc đời, tư tưởng,  tâm hồn chúng ta đã tỏ ra đẹp đẽ, đáng yêu và phong phú vô cùng. 


12 tháng chín.

Em đã nhận được bức thư anh gởi từ Pise. Ở  nhà chúng em cũng có những ngày thật  rực rỡ, chưa bao giờ em thấy xứ Normandie đẹp đến thế. Hôm kia em một mình lội bộ làm một cuộc đi dạo lang thang qua cánh đồng; lúc về thấy trong người phấn khởi hơn là mệt mỏi, say sưa với ánh mặt  trời và niềm vui. Những đống rơm ngoài đồng dưới ánh mặt  trời sáng chói mới đẹp làm sao! Em không cần phải tưởng tượng mình ở bên Ý mới thấy vạn vật đều đáng chiêm ngưỡng. 

Vâng, anh ạ, đó là niềm khích lệ cho sự vui vẻ như anh đã nói, mà em lắng nghe và hiểu ra  trong “bài ca huyền ảo” của thiên nhiên. Em nghe nó  trong từng tiếng chim ca; em thở  nó trong mỗi mùi hương của từng nụ hoa nở và rồi em không còn hiểu gì nữa ngoài sự chiêm ngưỡng như một hình thức cầu nguyện – lặp lại với thánh Phan xi cô: Lạy Chúa! Lạy Chúa! “e non altro”,  lòng tràn ngập một tình yêu khôn diễn  tả. 

Tuy nhiên  anh đừng  ngại rằng em sẽ trở thành một nữ tu. Lúc sau này em đọc sách nhiều lắm: một đôi ngày nhờ  trời mưa không ra ngoài được em đã đem hết tâm hồn ngưỡng mộ vào trong những trang sách... Em đã đọc xong Malebranche và lập tức tiếp tập Lettres và Clarke của Leibniz. Rồi để giải trí, em đọc Les Cenci của Shelley -  không thấy thú; cũng  đọc La Sensitive nữa... Có lẽ em sắp làm anh giận: em bằng lòng bỏ hầu hết Shelley, hết Byron vì bốn bài đoản ca của Keats, mà chúng ta cùng đọc với nhau mùa hè trước; cũng như em bằng lòng đổi tất cả Hugo để lấy vài bài đoản thi của Baudelaire. Cái tiếng đại thi hào chả nói lên được  gì cả; chỉ có  thi sĩ thuần túy mới là điều quan trọng…  Ồ, anh ơi! Cảm tạ anh đã giúp em biết đến, hiểu được và yêu chuộng mọi thứ này. 

…Không, anh đừng rút ngắn chuyến du lịch để tìm vui gặp lại nhau trong vài ngày. Nghiêm chỉnh mà nói thì tốt nhất  là chúng ta khoan vội gặp nhau. Hãy tin lời em: khi anh ở gần bên em, em sẽ không thể nào nghĩ đến anh nhiều nữa. Em không muốn làm anh đau buồn, nhưng em lại thấy ngày nay em như không còn ao ước - lúc này - sự hiện diện của anh nữa. Anh có muốn em thú thật không? Nếu biết  chiều nay anh về... em sẽ trốn thôi. 

Ồi! Đừng đòi hỏi em phải giải thích… cái tình cảm này, em van anh. Em chỉ biết rằng em nghĩ đến anh không lúc nào nguôi (như vậy cũng đầy đủ lắm cho hạnh phúc của anh rồi) và em sung sướng cứ được  như thế.

Ít lâu sau bức thư cuối này, và ngay khi từ Ý về, tôi bị gọi thi hành quân dịch và được đưa về Nancy. Tôi không quen một ai thân ở đây, nhưng tôi thấy vui trong cảnh cô đơn, vì như thế càng chứng tỏ rõ ràng hơn với niềm kiêu hãnh của người yêu và với Alissa rằng những thư từ của nàng là nơi duy nhất cho tôi nương náu, và kỷ niệm về nàng, như Ronsard nói, “mục đích hoàn hảo duy nhất của tôi”. 

Nói thật ra, tôi chịu đựng rất dễ dàng kỷ luật khá nghiêm nhặt mà đời lính áp đặt lên chúng tôi. Tôi dày dạn với mọi thứ, và trong thư từ gởi về cho Alissa, chỉ than phiền nỗi thiếu vắng nàng thôi. Chúng tôi cũng tìm thấy ngay trong thời gian lâu dài của sự cách biệt một sự thử thách xứng với lòng kiên trì của mình. "Anh, người không bao giờ than van, Alissa viết cho tôi, anh là người  em không thể nào tưởng tượng sẽ nhu nhược..." Phải chăng tôi đã phải chịu đựng bao gian khổ chỉ để làm chứng cho mấy lời nói của nàng?
Một năm gần trôi qua, từ ngày gặp lại nhau lần cuối, Nàng hình như không nghĩ tới mà chỉ bây giờ mới bắt đầu mong đợi. Tôi trách nàng điều ấy. 

Không phải em đã cùng anh ở bên Ý hay sao? Nàng trả lới.  Anh bạc bẽo quá! Em có bỏ anh một ngày nào đâu. Anh hãy hiểu rằng ngày nay, có  một lúc nào đó, em không còn thể theo dõi anh nữa, và điều đó, duy chỉ điều đó thôi, em mới gọi là cách biệt. Thật thế, nhiều lần em cũng thử hình dung anh trong quân ngũ...  Nhưng em không tài nào thấy được. Cùng lắm là gặp anh buổi tối, trong gian phòng nhỏ đường Gambetta, đang cắm cúi viết hoặc đọc... và cũng thế, không? thật ra, em chỉ gặp lại anh tại Fongueusamare hoặc tại Havre trong một năm nữa.

Một năm trời! Em không kể những ngày đã qua; niềm hy vọng của em nhắm  vào thời điểm này đang tiến đến chầm chậm, chầm chậm.  Anh còn nhớ chứ, ở cuối vườn, có bức tường thấp che chở những bụi cúc vàng, mà chúng ta hay làm tài gan đi trên ấy: Juliette và anh đi hùng dũng như những người Hồi giáo bước  thẳng tới Thiên Đàng; còn em, mới đi bước đầu là đã thấy xây xẩm, trong khi anh đứng dưới kêu lớn: "Đừng có nhìn xuống dưới chân như thế!... Nhìn thẳng phía  trước! Tiến thẳng lên! Nhìn thẳng đích mà bước!". Rồi cuối cùng- và điều này giá trị gấp ngàn lần lời nói -  anh leo lên đầu tường bên kia chờ em. Lúc ấy em không còn run sợ nữa. Em cũng không còn cảm  thấy chóng mặt nữa: em chỉ còn nhìn anh, và chạy  đến ngã vào cánh tay anh đang mở rộng... 

Nếu không tin cậy nơi anh, Jérôme à, thì em sẽ ra sao? Em cần anh cảm thấy mạnh; cần  nương tựa nơi anh. Anh đừng tỏ ra yếu đuối.

Bằng một kiểu thách thức mình, chúng tôi như vui lòng kéo dài sự chờ đợi –  và cũng vì e sợ sự một cuộc tái ngộ không thật hoàn hảo, chúng tôi thỏa thuận rằng: mấy ngày nghỉ phép dịp Năm Mới tôi chỉ sẽ về Paris ở với cô Ashburton,…

Tôi đã nói rồi: tôi sẽ không chép lại mọi thư từ. Đây là lá thư tôi nhận được, khoảng trung tuần tháng hai. 

Xúc động mạnh, khi  đi qua đường Paris hôm kia, thấy tiệm sách M…bày ở mặt trước tủ hàng một cách thiếu ý thức cuốn sách của Abel mà anh đã báo cho em biết, nhưng còn về cái hiện thực của nó thì em chưa tài nào tin được. Không thể kềm lòng được nên em  đã bước vào cửa hàng; nhưng nhan đề cuốn sách lại  tỏ ra cho  em thấy lố lăng đến nỗi em lưỡng lự nói ra cho người bán sách: em vẫn còn thấy nó lúc em sắp rời hiệu sách với bất cứ một tập sách nào khác. May thay, có một chồng sách thuộc loại “khuynh hướng tự do" nằm ngả nghiêng chờ người mua bên quầy thu tiền nên em thảy vội đồng bạc sau khi bốc một tập, mà khỏi phải thốt lời nào.

Em thấy  Abel cũng biết điều  nên đã không gửi sách tặng cho em! Em không thể lần giở tập sách, mà không cảm thấy xấu hổ; xấu hổ không phải chỉ vì cuốn sách – dù sao thì cũng có  nhiều cái  lố lăng hơn là sỗ sàng – nhưng xấu hổ vì nghĩ rằng Abel, Abel Vautier, bạn của anh đã viết ra. Em đã uổng công tìm kiếm khắp từng trang mà chẳng thấy đâu là cái "tài năng lớn" như nhà phê bình trong tạp chí Thời Đại đã khám phá ra. Tại cái xã hội nhỏ bé của Havre này, người ta thường nói tới Abel, em mới hay là cuốn sách gặt  được nhiều thành công lắm. Em nghe người ta gọi là thể cách "nhẹ nhàng duyên dáng" cái tính phù phiếm không chữa được của cái đầu óc này; tự nhiên em chú ý đến cái điều phải thận trọng và em  chỉ nói riêng với anh về điều em đọc thôi. Mục sư Vautier đáng thương thì ban đầu em đã thấy  ông ta buồn phiền là đúng, cuối cùng lại  đâm ra tự bảo: biết đâu cũng có lý do nào đó để hãnh diện về quyển sách; bất cứ người nào xung quanh ông ta cũng đã ra sức làm cho ông ta tin. Hôm qua, tại nhà cô Plantier, cô  V… đã đột ngột bảo ông ta: - Thưa mục sư, chắc hẳn ngài phải hài lòng lắm về sự thành công rực rỡ của cậu con trai! ông ta hơi ngượng ngập đáp: - Lạy Chúa,  tôi chưa cảm thấy thế... – Nhưng rồi ngài sẽ thấy! ngài sẽ thấy thôi! cô cúa em nói, chắc chắn là không có ý châm chọc nhưng bằng một giọng rất cổ vũ  đến nỗi mọi người cùng bật cười, kể cả mục sư. 

Không biết còn gì sẽ xảy ra khi người ta trình diễn vở Nouvel Abeilard mà em nghe cũng do anh ta soạn  cho một gánh kịch rong  nào đó mà hình như báo chí cũng đã đề cập tới!... Tội nghiệp cho Abel! Có thật là sự thành công đó là điều  anh ta ao ước và sẽ thỏa mãn với chừng ấy sao? 

Hôm qua em đọc những lời này trong Nguồn An Vui Vĩnh Viễn: "Kẻ nào thật sự ước vọng vinh quang chân chính và trường cửu, kẻ ấy không kể gì vinh quang đời này; không biết xem thường vinh hiển  trần gian, là tỏ ra không biết yêu mến  vinh hiển cao cả", và em nghĩ; xin cảm tạ Thiên Chúa, đã chọn Jérôme để hướng về sự vinh hiển nơi các tầng trời, bên cạnh đó tất cả cái gì khác chẳng còn có nghĩa gì cả.

Tuần qua tháng lại trôi theo với những công việc đều đặn; nhưng vì không thể chỉ để hết tâm hồn vào những kỷ niệm cũ hoặc hy vọng mai sau, nên tôi cũng không nhận thấy thời gian chậm chạp và dài đằng đẵng là bao. 

Cậu tôi và Alissa tháng sáu này phải đi thăm Juliette ở gần Nimes, vì nàng sắp cho chào đời một đứa con trong khoảng thời gian ấy. Nhiều tin tức không được tốt đẹp lắm khiến cho họ phải khởi hành sớm hơn. 

Bức thư cuối của anh gửi về Havre, Alissa viết cho tôi, đến vào lúc em vừa rời Havre.  Làm sao mà giải thích khi tám ngày sau em mới nhận được. Suốt cả tuần, tâm hồn em thơ thẩn, buốt lạnh, nghi ngờ, sa sút.  Anh của em ơi!  em không còn thật là em nữa, mà chỉ còn là em, với anh…

Sức khỏe Juliette đã khá; chúng em đang ngày một ngày hai chờ đợi ngày sinh nở của Juliette và cũng không quá lo lắng. Nó biết rằng sáng nay em viết thư cho anh. Hôm sau ngày em đến Aigues Vives, Juliette đã hỏi em: - Và còn anh Jérôme ra sao rồi? Anh ấy luôn  viết  thư cho chị chứ?... và em không thể nói dối với nó; Khi nào chị viết thư cho anh ấy, nó nói, nhớ nói rằng... nó ngần ngừ một  chút, rồi mỉm cười dịu dàng nói tiếp:... em đã khỏi bệnh rồi. - Em cũng đã hơi lo ngại khi thấy thư của nó luôn vui vẻ là  nó đóng kịch mình đang hạnh phúc nhưng chính nó không hề làm ra vậy... Điều mà nó lấy làm hạnh phúc ngày nay khác với mộng tưởng ngày xưa biết bao và hình như hạnh phúc của nó phải tùy thuộc… 

Ồi! Cái điều mà người ta gọi là hạnh phúc là điều không mấy  xa lạ đối với tâm hồn; và những yếu tố từ bên ngoài tưởng chừng tạo thành hạnh phúc  quả thật là không đáng kể! Em xin phép không kể cho  anh những ý tưởng của mình trong những buổi một mình đi dạo trên cánh đồng hoang mà điều làm em ngạc nhiên nhất là sao thấy lòng không còn vui nữa; hạnh phúc của Juliette đáng lẽ phải  làm cho em vui... tại sao em lại cảm thấy tâm hồn mình lùi bước trước một nỗi buồn khó hiểu mà em không tài nào chống chỏi? Ngay cả vẻ đẹp của phong cảnh nơi đây mà em cảm thấy hoặc ít ra cũng ghi nhận, lại càng làm  tăng thêm nỗi buồn không sao giải thích... Khi anh từ Ý viết thư về, em đã biết nhìn mọi vật qua anh; bây giờ em thấy hình như em đã tước đoạt mất của anh những gì chỉ mình em nhìn ngắm mà không có anh.  Sau hết, hồi ở Fongueusemare và Havre, em đã làm cho mình có được cái đức tính đề kháng để áp dụng vào  những ngày mưa gió; thì ngày nay tại đây, đức tính đó không còn đem ra sử dụng nữa, và em lo lắng cảm thấy nó không còn được sử dụng đến. Tiếng cười của thiên hạ và cảnh trí nơi đây làm em bực bội; có lẽ cái mà em gọi là “buồn” chỉ là không ồn ào được như họ thôi…Chắc ngày trước trong nỗi vui của em có xen lẫn chút kiêu hãnh nào đó, bởi vì ngày nay, giữa cái vui xa lạ bên ngoài,  em cảm thấy có chút gì như tủi nhục. 

Tự ngày tới đây, em không cầu nguyện được bao nhiêu: em có cái cảm giác như trẻ con là Thiên Chúa không còn ở chỗ cũ. Giã từ anh; Em vội vã rời anh; em xấu hổ về lời phạm thượng này; về sự yếu đuối, về sự sầu muộn đó, và về chuyện viết ra cho anh tất cả những điều này mà ngày mai em sẽ xé bỏ, nếu chiều nay bưu điện không mang thư này  đi...

Bức thư tiếp theo chỉ nói đến sự hạ sinh đứa cháu mà nàng sẽ là mẹ đỡ đầu, về niềm vui của Juliette và của cậu tôi... nhưng về tâm tình riêng của nàng thì không đả động gì cả. 

Rồi tiếp theo là những thư lại gửi đi từ Fongueusemare; và Juliette cũng về đây với chị hồi tháng bảy… 

Édouard và Juliette từ giã ba và em sáng nay. Em luyến nhớ  nhất là đứa cháu; sáu tháng sau nữa, khi nhìn lại nó chắc em sẽ không còn  nhận ra những cử chỉ của nó;  gần như chưa có cử chỉ nào của nó mà em không nhìn nó phát minh. Những sự "hình thành" bao giờ cũng mầu nhiệm và phi thường! Chính tại vì  thiếu chú ý mà chúng ta ít khi ngạc nhiên. Biết bao lần em đứng im hàng giờ, cúi mình bên chiếc nôi nhỏ lòng chứa chan hy vọng. Do sự vị kỷ nào, sự tự mãn nào, sự thiếu khả năng để hoàn thiện nào  mà sự phát triển ngừng lại quá nhanh; và  mọi tạo vật định hình  lúc hãy còn quá cách xa Thiên Chúa? Ồi! phải chi chúng ta có thể, chúng ta còn muốn tiến gần Ngài hơn nữa... thì cuộc tranh đua  sẽ như thế nào đây!

Juliette có vẻ rất sung sướng. Ban đầu em hơi buồn thấy Juliette bỏ không chơi dương cầm và đọc sách nữa, nhưng vì Édouard Teissières không thích âm nhạc, và cũng không có sở thích văn chương; và Juliette chắc chắn đã hành xử khôn ngoan bằng cách không tìm thú vui riêng cho mình, nếu chồng không thể cùng san sẻ. Trái lại, nó rất chú tâm vào công việc của chồng và chồng nó đã  để cho nó theo dõi trong mọi công việc làm ăn. Năm nay việc làm ăn được khuyếch trương và anh chàng vui thích nói rằng chính nhờ cuộc hôn nhân này mà chàng ta có được một số  đông khách hàng ở Havre. Robert đã đi theo chàng ta trong những chuyến đi công việc vừa rồi; Édouard rất lưu tâm chăm sóc nó; và tin mình rất hiểu tâm tính Robert, và chàng ta vẫn hy vọng sẽ có ngày nhìn thấy Robert thật sự yêu thích công việc làm ăn này. 

Sức khỏe cha em có khá nhiều; nhìn thấy con gái sống hạnh phúc làm cha trẻ ra; người lại thấy hứng thú với nông trại, với vườn tược, và đã bảo em đọc sách lớn tiếng cho người nghe  mà em đã bắt đầu với cô Ashburton và thời gian gia đình Tessières lưu lại đây đã làm gián đoạn; đó là  những chuyến du lịch của bá tước Huebner; mà em đọc cho người nghe như vậy và chính mình cũng thấy rất  thích. Lúc này  em cũng còn nhiều thì giờ rỗi để  đọc thêm cho riêng em, nhưng em đang chờ những điều chỉ dẫn của anh; sáng nay, em cầm hết tập này đến tập khác nhiều quyển nữa mà không cảm thấy thích tập nào cả!...

Từ lúc này trở đi, thư Alissa ngày càng bối rối và thúc bách. Vào độ cuối hè, nàng viết: 

Vì sợ làm anh lo lắng  nên em không nói cho anh biết là em chờ mong anh như thế nào. Mỗi ngày qua đi trước khi được gặp lại anh, đè nặng lên em làm em ngột ngạt. Còn những hai tháng nữa! Chừng đó nhưng đối với em nghe như  dài còn hơn tất cả thời gian xa anh từ trước tới nay! Tất cả những gì em cố làm để  tìm cách tự đánh lừa sự đợi chờ đều có vẻ ngô nghê  tạm thời và em không thể ép mình theo tí nào. Sách vở không còn cao đẹp nữa, không còn hấp dẫn nữa,  đi dạo cũng không lý thú, cảnh vật hết ma lực lôi cuốn, vườn tược cũng phôi phai sắc hương. Em thèm thuồng những công việc tạp dịch của anh, những sự tập luyện bó buộc, không theo ý mình chọn lựa, không ngừng rứt anh ra khỏi chính mình, làm anh mệt nhọc, làm cho ngày chóng qua, và chiều tối là đầy mỏi mệt lăn ngay vào giấc ngủ. Những  mô tả cảm động về các buổi diễn tập ám ảnh em. Những đêm gần đây em ngủ không ngon giấc, nhiều lần em trở giấc thình lình nghe tiếng kèn hiệu  giục giã, nghe thật sự đó. Em hình dung rất rõ niềm say  mê phơi phới mà anh nói, cái lâng lâng lúc ban mai, cái cảm giác gần như bàng hoàng... Trong cái chói lòa giá buốt của bình minh, cao nguyên Malzéville hẳn là đẹp lắm!... 

Mấy ngày nay, em không được khỏe. Ồ! Chả có gì hệ trọng lắm đâu. Em nghĩ là  tại em hơi quá nôn nao đợi chờ anh  nên thế.

Và sáu tuần sau. 

Đây là thư cuối cùng của em, bạn em ơi. Dù anh chưa định chắc ngày về, nhưng cũng chả còn bao lâu nữa; em không còn thể viết gì cho anh nữa. Em muốn sẽ được gặp anh ở Fongueusemare, nhưng vì thời tiết trở nên  xấu, trời trở lạnh nên cha em chỉ nói chuyện về lại dưới phố. Nay thì  Robert và Juliette cũng không còn sống chung,  anh có thể trọ lại nhà em được lắm, nhưng tốt hơn là anh nên ở nhà cô Félicie, và cô ấy cũng sẽ vui sướng tiếp đón anh.

Ngày về của anh càng gần, sự chờ đợi của em càng lo lắng, gần như  sợ hãi; sự trở về hằng mong ước biết bao thì nay hình như em lại ngại gặp lại anh; em cố  gắng không  nghĩ đến; em tưởng tượng tiếng chuông kêu cửa của  anh, tiếng chân anh bước lên cầu thang, tim em như ngừng đập hoặc làm em phát mệt... Và nhất là đừng chờ đợi em có thể thốt được lời nào với anh... Em cảm thấy dĩ vãng của em dường như kết thúc ở đó; bên ngoài đó em không nhìn thấy gì hết. Cuộc đời em dừng lại…

Tuy nhiên bốn ngày sau, nghĩa là một tuần trước ngày tôi giải ngũ, tôi còn nhận được một lá thư nữa rất ngắn: 

Anh của em ơi, em hoàn toàn tán đồng với anh là không tìm cách  kéo dài thái quá lần về thăm lại Havre và thời gian gặp lại đầu tiên của chúng ta.. Còn có điều gì chúng ta sẽ  nói với nhau mà chưa  được viết trong thư nữa đâu? Vậy thì nếu việc ghi danh đòi anh phải  về lại Paris từ ngày 28 thì cũng đừng ngần ngại gì, cũng đừng nên tiếc rẻ chúng mình chỉ có thể gặp nhau có hai ngày. Không phải chúng ta còn cả một cuộc đời sao?

Nguyên tác  La pote étroite
Tác giả   ANDRÉ GIDE  (1869-1951)
ÐOÀN VĂN KHANH dịch
theo
nguyên văn tiếng Pháp

No comments:

Post a Comment