Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Saturday, February 9, 2013

KHUNG CỬA HẸP [1] - A. GIDE

Truyện dịch

CHƯƠNG I

Câu chuyện mà tôi kể ra đây, những kẻ khác có thể đã viết thành một quyển sách, nhưng tôi đã đem hết sức mình để sống lại câu chuyện, vì thế năng lực tinh thần cũng đã hao mòn. Vậy tôi sẽ viết lại những kỷ niệm nầy một cách rất đơn giản: và nếu câu chuyện có nhiều chỗ như những mảnh vụn, tôi cũng sẽ không dùng bất cứ sự sáng tạo nào để chắp vá hay liên kết chúng lại với nhau. Sự cố gắng để trau chuốt những mảnh vụn ấy sẽ làm tiêu tan niềm thích thú cuối cùng mà tôi hy vọng sẽ tìm thấy để kể lại.


Cha tôi mất khi tôi chưa đầy mười hai tuổi. Không còn gì giữ người ở lại Havre, nơi cha tôi đã từng là một y sĩ, mẹ tôi bèn quyết định dọn lên Paris, vì cho rằng ở đây mới là nơi cho tôi hoàn tất việc học hành một cách tốt đẹp hơn.
Người thuê một căn chung cư nhỏ gần vườn Luxembourg và cô Ashburton cùng đến ở chung với chúng tôi. Cô Flora Ashburton, không còn gia đình, vốn là cô giáo của mẹ tôi lúc ban đầu, rồi bạn gái của mẹ tôi, sau cùng trở thành bạn thân thiết. Tôi sống bên cạnh hai người đàn bà cùng mang vẻ dịu dàng và sầu muộn như nhau mà ngày nay tôi chỉ có thể gặp lại họ trong tưởng niệm. Một hôm, tôi nghĩ là sau ngày cha tôi mất khá lâu, mẹ tôi thay miếng băng tang đen trên chiếc mũ của người bằng một cái băng màu hoa cà. 

Tôi thốt lên: "Ồ, mẹ ạ! Cái màu đó không hợp với mẹ chút nào". 
Ngày hôm sau, mẹ tôi gắn lại miếng băng đen cũ. 

Thể chất tôi thủa nhỏ vốn ốm yếu. Nếu những sự ân cần lo lắng của mẹ tôi và cô Ashburton để  tránh cho tôi khỏi những cái mệt nhọc không biền tôi thành một thằng lười biếng, ấy là vì tôi thực sư ham làm việc. Ngay những ngày vừa bắt đầu đẹp trời là cả hai người đàn bà cùng cho rằng đã đến lúc nên cho tôi rời phố phường vì ở đây đã làm cho tôi quá xanh xao; cho nên vào khoảng giũa tháng sáu, chúng tôi đi về miền Fongueusemare gần hải cảng Havre, nơi cậu Bucolin vẫn đón tiếp chúng tôi mỗi mùa hè. 

Trong một khu vườn không quá rộng, không đẹp lắm, cũng không có gì đặc biệt để gọi là nổi bật hơn những khu vườn khác của xứ Normandie, ngôi nhà cậu tôi, màu trắng, hai tầng, rất giống với những ngôi nhà vùng quê vào thời kỳ hai thế kỷ trước. Mặt trước nhà là khoảng hai chục cánh cửa sổ mở ra vườn phía trước về hướng đông; mặt sau cũng chừng ấy cửa; hai bên cạnh nhà thì không. Những cửa sổ được lắp bằng nhiều khuôn kính hình vuông nhỏ, có vài miếng vừa đưọc thay mới, trông có vẻ quá sáng giữa những tấm cũ nằm kế bên trông xanh xạm và mờ đục thêm ra. Một vài tấm bị tì vết mà ông cha ta quen gọi “có bọt”,  nên khi nhìn qua đó, cây như xiêu vẹo... người phát thư thì thình lình lưng như nổi gù khi đi ngang qua. 

Khu vườn hình chữ nhật có tường bao quanh. Đàng trước nhà là một bãi cỏ khá rộng, có bóng cây, với lối đi trải cát và sỏi. Bờ tường mặt này được xây thấp xuống để cho người ta nhìn thấy khu sân trang trại bao quanh vườn; và một con đường đi có trồng cây dẻ gai theo kiểu trong vùng. 

Mặt sau nhà về phía mặt trời lặn,khu vườn càng trải rộng thêm. Những cây nguyệt quế xứ Bồ và vài cây cối khác lám thành một cái màn dày chắn ngọn gió biển cho một lối đi đầy hoa nở bên những hàng cây trồng dựa vách tường phía nam. Dọc theo bờ tường phía bắc, một lối đi khác lẩn khuất trong cành lá rườm rà. Các cô em họ tôi gọi đó là "ngõ tối", và vào lúc nhá nhem, không dễ gì dám lang thang ra đây. Hai lối đi cùng dẫn tới vườn rau quả tiếp giáp với khu vườn thấp hơn và phải bước xuống vài bậc cấp. Rồi về phía bên kia của bức tường cuối vườn rau quả có chừa một cửa hậu kín nhỏ là khu rừng cây được tỉa xén, hai con đường trồng dẻ gai dọc tường bên trái và bên phải cùng đổ vào và chấm dứt nơi đây. Từ bực thềm phía tây, nhìn qua lùm cây này là thấy lại dãy cao nguyên trồng ngũ cốc. Về phía chân trời xa xa là một ngôi nhà thờ của một ngôi làng nhỏ và vào buổi chiều khi trời tĩnh mịch, vài làn khói vươn lên từ những ngôi nhà. 

Mỗi chiều đẹp trời mùa hè, sau bữa cơm tối, chúng tôi xuống chơi trong "vườn dưới". Chúng tôi ra đó bằng cái cửa hậu kín nhỏ, tiến đến một cái ghế đá bên con đường có trồng dẻ gai, nơi người ta có thể nhìn thấy được toàn vùng nầy; cậu tôi, mẹ tôi, và cô Ashburton ngồi lại đây, bên cạnh mái tranh của một cái hầm đá vôi bỏ hoang. Trước mặt chúng tôi là cái thung lũng nhỏ đầy sương chiều và nền trời óng vàng trên cánh rừng xa xa. Rồi chúng tôi rề rà sâu trong vườn đã dần dần tối. Trở vào nhà, chúng tôi gặp lại mợ tôi nơi phòng khách, kẻ gần như không bao giờ dạo vườn cùng chúng tôi... Đối với chúng tôi, đám con cháu, thế là xong buổi chiều nhưng thường thì chúng tôi cũng còn về phòng riêng đọc sách, cho đến khi nghe có tiếng chân bước lên lầu của cha mẹ chúng tôi một hồi khuya sau đó. 

Ban ngày ngoài những giờ ở chơi ngoài vườn thì chúng tôi ở trong “phòng học”, phòng làm việc của cậu tôi nhưng có đặt cả bàn ghế học trò cho chúng tôi. Robert em họ tôi cùng ngồi học bên cạnh tôi, phía sau chúng tôi là Juliette và Alissa. Alissa lớn hơn tôi hai tuổi, Juliette nhỏ hơn tôi một; Robert là đứa nhỏ nhất trong bốn đứa chúng tôi. 

Đây không phải là những kỷ niệm đầu tiên mà tôi định viết ra, nhưng những kỷ niệm đó lại có liên hệ đến câu chuyện này. Có thể nói là câu chuyện khởi đầu đúng vào năm cha tôi mất. Có lẽ tình mẫn cảm của tôi bị kích động quá độ vì cái tang lớn, và nếu không vì nỗi buồn riêng thì ít ra cũng vì nhìn thấy nỗi buồn của mẹ, mà tôi đã dễ dáng thả hồn mình cho những xúc động mới chăng? Tôi đã sớm hiểu biết; và năm ấy, khi gặp lại nhau ở Fongueusemare, tôi thấy Robert và Juliette như trẻ thơ thêm, nhưng khi nhìn lại Alissa, đột nhiên tôi chợt hiểu ra cả hai chúng tôi không còn trẻ thơ nữa. 

Vâng, chính là vào năm cha tôi mất, và điều chúng minh cho ký ức của mình không nhầm lẫn là một mẩu chuyện đối đáp giữa mẹ tôi và cô Ashburton ngay sau khi chúng tôi đến nhà cậu. Tôi bất ngờ bước vào căn phòng mà mẹ tôi đang nói chuyện với cô Ashburton; và họ đang nói về mợ tôi. Mẹ tôi tức giận thấy  mợ tôi sao lại không mặc tang phục hay là đã đoạn tang sớm rồi. (Thực ra đối với tôi thì tôi lại không tài nào tưởng tượng nổi mợ Bucolin trong bộ tang phục đen, cũng như mẹ tôi trong bộ y phục có màu tươi sáng được). Ngày chúng tôi đến, như tôi vẫn còn nhớ, mợ Lucile Bucolin mặc một chiếc áo hàng mỏng. Cô Ashburton vốn luôn luôn thích giảng hòa, cố gắng làm dịu lòng mẹ tôi, biện hộ một cách dè dặt: 

- Dù sao thì màu trắng cũng là màu tang. 

Mẹ tôi tức giận nói:
- Thế thì cái khăn choàng màu đỏ thắm của bà ấy đang choàng trên vai cũng được chị gọi là "màu tang" nữa sao? Flora! Chị làm tôi nổi tức! 

Tôi chỉ gặp mợ tôi vào những tháng nghỉ hè, và có lẽ sự nóng bức của mùa hè khiến mợ phải mặc áo lót bằng hàng mỏng và hở hang mà tôi đã luôn luôn nhìn thấy rồi, nhưng cái làm cho mẹ tôi công phẫn hơn không phải là màu đỏ thắm của chiếc khăn choàng mà mợ tôi khoác trên đôi vai trần của mình mà chính là cái kiểu hở hang.

Mợ Lucile Bucolin rất đẹp. Một tấm ảnh nhỏ của mợ mà tôi còn cất giữ cho thấy khuôn mặt của mợ thuở ấy, vẻ rất trẻ đến nỗi người ta có thể lầm tưởng mợ là chị cả của hai người con gái chứ không phải là mẹ. Tấm ảnh chụp mợ đang ngồi nghiêng trong dáng dấp quen thuộc: đầu tựa trên tay trái với ngón út điệu đàng gập về đôi môi. Một chiếc lưới trùm giữ mái tóc quăn xõa lưng chừng xuống gáy; cổ đeo một cái vòng bằng nhung đen có tấm mặt ngọc khảm theo kiểu Ý buông thòng xuống chỗ ngực hở của áo lót. Sợi dây thắt lưng bằng nhung đen thắt nơ buông lỏng bồng bềnh, chiếc nón rơm rộng vành mềm mại bên lưng tựa của cái ghế càng làm cho vẻ mặt của mợ trẻ thơ ra. Bàn tay phải buông xuôi, cầm một quyển sách đang gấp. 

Mợ Lucile Bucolin vốn sinh trưởng ở thuộc địa; mợ ấy không biết cha mẹ hoâc cha mẹ đã mất quá sớm. Sau nầy mẹ tôi mới kể cho biết rằng thuở nhỏ bị bỏ bơ vơ,  hoặc là côi cút, nên mợ ấy đã được mục sư Vautier nhận đem về nuôi vào cái thời mục sư hãy còn chưa có con, rồi sau nầy, khi rời xứ Martinique, vị mục sư đem mợ ấy theo về Havre nơi gia đình Bucolin chôn chân. Gia đình Vautier và gia đình Bucolin thường qua lại với nhau; cậu tôi thuở ấy đang là nhân viên cho một ngân hàng ở ngoại quốc, và mãi ba năm sau, khi trở về gia đình, cậu mới gặp cô bé Lucile. Cậu yêu cố bé ấy và liền hỏi nàng làm vợ và điều đó làm cho ông bà ngoại và mẹ tôi rất buồn phiền. Lucile lúc ấy mới mười sáu tuổi. Vào khoảng thời gian đó, bà Vautier đã hạ sinh được hai con, và bắt đầu lo sợ cho con mình trước cái ảnh hưởng của đứa chị nuôi mà tính khí càng ngày càng tỏ ra kỳ quặc này, hơn nữa, nguồn lợi tức của vị mục sư cũng eo hẹp… tất cả những điều này mẹ tôi đã kể lại để cho tôi biết rằng gia đình vị mục sư đã chấp thuận lời cầu hôn của cậu tôi với niềm vui sướng hân hoan. Thêm vào đó, tôi đoán rằng Lucile cũng đã bắt đầu gây cho ông bà Vautier nhiều nỗi lo lắng. Tôi cũng thừa hiểu cái xã hội của thị trấn Havre để có thể tưởng tượng được thái độ của người ta đối với cô gái đầy quyến rũ ấy. Mục sư Vautier thì mãi sau nầy tôi mới được biết, tính tình vừa hiền hòa, thận trọng, vừa chất phác, nên thường vô phương đối phó với các mưu mô mánh khoé và hoàn toàn bất lực trước cái xấu - người xuất sắc hẳn phải biết cách. Còn bà Vautier, thì tôi không thể biết rõ; bà mất đi lúc sinh hạ đứa con thứ tư cũng suýt soát tuổi tôi và người này sau đó trở thành bạn của tôi…

Lucile Bucolin ít khi tham dự vào nếp sinh hoạt của chúng tôi; mợ ấy chỉ xuống khỏi phòng riêng sau buổi cơm trưa; và lập tức nằm dài trên chiếc sô pha hay trong một chiếc võng, và cứ thế mãi cho đến chiều mới  uể oải đứng dậy. Đôi lúc mợ ấy đưa một chiếc khăn tay lên trán như thể lau mồ hôi mặc dù trán mợ không hề lấm tấm giọt nào, một chiếc khăn rất mịn, tỏa mùi hương ngây ngất như của một loại quả hơn là hương của một loài hoa; đôi khi mợ lấy trong thắt lưng ra một cái gương con có nắp bạc bóng láng, đeo  chung trong một sợi dây chuyền với chiếc đồng hồ quả quít và vài vật nhỏ; soi mình trong gương, một ngón tay sờ môi mình thấm tí nước miếng rồi thoa lên khoé mắt. Mợ hay cầm một quyển sách, nhưng quyển sách thì hầu như lúc nào cũng gấp lại, trong quyển sách có một mảnh đồi mồi làm dấu chỗ đang xem, nằm kẹp giữa những trang giấy. Khi có người tiến đến gần, đôi mắt nhìn của mợ cũng không rời khỏi giấc mơ của mình để nhìn thử xem là ai. Đôi lúc, từ bàn tay buông thõng hoặc uể oải từ thành dựa của chiếc sô pha, hoặc từ nếp xiêm, lại chợt rơi xuống đất chiếc khăn tay, hoặc quyển sách, hoặc một đóa hoa, hay mảnh đồi mồi trong quyển sách. Một ngày nọ, trong khi lượm quyển sách lên – đây là một kỷ niệm thuở nhỏ tôi kể lại cho bạn nghe – tôi đỏ mặt khi thấy đó là một tập thơ. 

Buổi tối, sau bữa cơm chiều, Lucile Bucolin không lại ngồi chung bàn gia đình như chúng tôi mà đến ngồi trước chiếc dương cầm, say sưa tấu lên những bản mazurka chậm rãi của Chopin, đôi lúc bỏ cả nhịp, mợ ta ngừng luôn trên một hòa âm... 

Khi ở gần mợ, tôi như cảm thấy có một sự khó chịu dị thường, một thứ tình cảm như vừa bối rối, vừa ngưỡng mộ, vừa sợ hãi. Có thể một bản năng sâu kín nào đó bảo tôi phải e dè mợ ấy, và tôi cũng cảm thấy mợ ta coi thường cô Flora Ashburton và mẹ tôi, và cô Ashburton thì như sợ mợ ấy, còn mẹ tôi thì không ưa gì mợ ta. 

Lucile Bucolin ạ, tôi muốn không trách giận mợ nữa, muốn quên đi trong giây lát rằng mợ là người đã gây quá nhiều điều xấu... nhưng dù sao tôi cũng sẽ cố gắng nói về mợ mà không oán giận. 

Một ngày mùa hè năm ấy – hay là của năm sau, bởi vì trong cái khung cảnh mãi mãi giống hệt nhau, đôi khi những kỷ niệm lớp này lớp khác của tôi lẫn  lộn vào nhau – tôi vào phòng khách tìm một quyển sách, Lucile ở trong phòng. Tôi sắp sửa quay ra ngay; nhưng mợ ấy, thường ngày hình như chẳng bao giờ nhìn thấy tôi, bỗng nhiên gọi: 

- Jérôme, sao lại vội đi ra ngay thế! Có phải mợ làm cháu sợ không? 

Tôi tiến lại gần mợ, tim đập thình thịch, cố mỉm cười và đưa tay cho mợ bắt. Mợ một tay nắm giữ tay tôi lại trong tay mợ, và tay kia vuốt má tôi: 

- Mẹ cháu cho cháu ăn mặc tệ thật, tội nghiệp cho cháu của mợ quá! 

Lúc ấy tôi đang mặc một chiếc áo va-rơ cổ lớn, và mợ tôi bắt đầu vò cho nhàu ra. 

- "Cổ áo lính thủy mặc hở hơn nhiều kia! Mợ vừa nói vừa làm sút mất một chiếc nút áo – "Nào, cháu xem có phải như thế này trông đẹp hơn không?".

Và rút chiếc gương con ra, mợ kéo mặt tôi sát lại khuôn mặt mợ, quàng  cánh tay trần của mợ quanh cổ tôi, luồn tay vào phía trong chiếc áo sơ mi trắng hé mở của tôi, vừa cười vừa hỏi tôi có thấy nhột không, rồi đưa xa hơn nữa... Tôi giật nảy mình lên thình lình đến nỗi làm rách cả chiếc áo va-rơ;  mặt đỏ bừng lên, cắm đầu chạy trốn, trong khi mợ bực mình thốt lên: 

- Ồ! Cái thứ đần chưa từng thấy! 

Tôi chạy đến cuối vườn; lấy khăn tay nhúng vào cái bể nhỏ chứa nước mưa của vườn rau quả, đưa lên lau chùi, chà xát má, cổ, tất cả những chỗ mà người đàn bà ấy đã sờ vào.

Có những ngày, Lucile Bucolin "lên cơn". Điều này hay xảy ra thình lình và làm cho cả nhà náo loạn lên. Cô Ashburton thì vội vã đem bọn trẻ tránh đi và lo chăm giữ chúng; nhưng người ta không thể nào làm át được những tiếng kêu la kinh khủng từ phòng khách hoặc phòng ngủ vẳng ra. Cậu tôi thì hốt hoảng  chạy khắp hành lang, tìm nào là khăn lau, nào là dầu thơm, nào là e-the; buổi cơm tối, ngồi vào bàn ăn không có mặt mợ ở đấy nữa, trông vẻ mặt cậu tôi lo lắng và già đi. 

Khi sự lên cơn tạm qua, Lucile Bucolin gọi các con lại bên mình, thường là Robert và Juliette; không bao giờ gọi Alissa. Những ngày sầu thảm ấy, Alissa tự nhốt mình trong phòng, đôi khi cậu tôi đến đó tìm gặp nàng; vì cậu tôi hay nói chuyện với Alissa lắm. 

Những lần lên cơn của mợ tôi gây náo động cho đám gia nhân rất nhiều. Có một chiều cơn bệnh phát lên mãnh liệt khác thường; lúc ấy tôi cùng mẹ tôi đang ở trong phòng của người, nơi đây người ta ít nghe được những chuyện xảy ra ở phòng khách, bỗng nghe tiếng chị bếp chạy trong hành lang kêu rối rít: 

- Mời ông xuống gấp, bà sắp chết đến nơi! 

Cậu tôi đang ở trên phòng Alissa; mẹ tôi cũng đổ xô ra tìm gặp cậu tôi. Mười lăm phút sau, trong khi hai người đi ngang trở qua mà không để ý cửa sổ căn phòng mà tôi ngồi đang mở cửa, tôi nghe có tiếng mẹ tôi:
- Cậu có muốn nghe tôi nói thật không, hả cậu: tất cả những cái đó đều là đóng kịch thôi - Và nhiều lần, nhấn rời từng chữ: đóng-kịch-thôi. 

Việc nầy xảy ra vào khoảng cuối hè, và đúng hai năm sau cái tang lớn của chúng tôi. Tôi không gặp lại mợ tôi một thời gian lâu lắm. Nhưng trước khi nói đến biến cố đau buồn xảy đến làm đảo lộn gia đình, và một chút chuyện nhỏ xảy ra không bao lâu trước lúc chung cục đã biến cái tình cảm phức tạp và mơ hồ mà tôi cảm nghiệm đối với Lucile Bucolin trở thành hoàn toàn oán ghét – tôi tưởng đã đến lúc phải nói về cô em họ của tôi.

Alissa Bucolin rất xinh đẹp, đó là cái điều mà thuở ấy tôi chưa biết nhận ra; tôi thấy quyến luyến và gần gũi nàng là do một cái duyên nào đó hơn là sắc đẹp. Chắc chắn là Alissa rất giống mẹ; nhưng đôi mắt nhìn của nàng có một cái vẻ rất khác xa đến nỗi mãi về sau này tôi mới nhận ra nàng giống mẹ nàng. Tôi không thể miêu tả một khuôn mặt; từ những nét cá biệt, cho đến màu  mắt đều thoát khỏi sự ghi nhận của tôi. Giờ đây tôi chỉ thấy lại được cái vẻ gần như u sầu của nụ cười, nét lông mày cong vòng cao vút dị thường trên đôi mắt. Tôi chưa nhìn thấy những đôi mắt như thế ở đâu bao giờ…à, có thấy trên một pho tượng nhỏ của miền Florence thuộc thời đại Dante; và tôi đã dễ dàng tin Béatrix thuở nhỏ cũng có  đôi chân mày cong vòng cao vút như thế. Những cái đó mang đến cho cái nhìn một nét biểu lộ của sự dò hỏi vừa lo ngại, vừa tin cậy - vâng, một sự dò hỏi rất tha thiết. Tất cả nơi nàng chỉ là câu hỏi và đợi chờ… Tôi sẽ nói cho bạn rõ vì sao cái nhìn ấy sẽ xâm chiếm tôi và làm thành cuộc đời tôi. 

Juliette có lẽ đẹp hơn chị; sự vui vẻ, khỏe mạnh điểm tô lên nàng nét tươi sáng; nhưng bên cạnh cái duyên đằm thắm của Alissa, sắc đẹp cô em có vẻ như phô trương hết ra ngoài. Về phần Robert thì chả có gì đặc biệt. Chỉ là một chú bé gần trạc tuổi tôi. Tôi chơi đùa với Juliette và Robert; nhưng với Alissa thì tôi trò chuyện; nàng chẳng mấy khi hòa mình vào những cuộc chơi của chúng tôi; dù có trở lùi về quá khứ xa xôi mấy đi nữa, tôi cũng chỉ nhìn thấy nàng đoan trang, dịu dàng mỉm cười và kín đáo. Chúng tôi nói những chuyện gì? Hai đứa trẻ thì có thể trò chuyện những gì? Tôi sẽ cố gắng thuật lại cho bạn, nhưng trước hết, tôi muốn trở lại câu chuyện mợ tôi một lần nữa đẻ kể nốt cho bạn nghe những gì có quan hệ đến mợ tôi, rồi về sau không còn phải nhắc đến mợ ấy nữa.

Hai năm sau ngày cha tôi mất, tôi cùng mẹ tôi đến Havre nghỉ lễ Phục sinh. Hai mẹ con không trọ nhà cậu Bucolin, vì nhà ở phố không lấy gì làm rộng rãi, mà đến trọ nhà một người chị của mẹ tôi, nhà cửa rộng rãi hơn. Dì Plantier mà không mấy khi tôi có dịp gặp, ở góa đã từ lâu; những người con của dì, tôi cũng không quen biết mấy, họ lớn tuổi hơn tôi nhiều, tính tình cũng rất khác. Ngôi nhà  dì tôi mà người dân ở Havre vẫn gọi “nhà Plantier” không nằm hẳn trong phố, mà ở lưng chừng một ngọn đồi trấn ngự thị trấn và người ta gọi là “Dốc”, nơi đây người ta có thể nhìn được khắp thị trấn. Cậu Bucolin thì lại ở gần khu giao dịch; một con đường dốc dựng dẫn từ nhà cậu sang nhà dì khá nhanh; vì thế mà tôi cứ tụt xuống leo lên mỗi ngày không biết bao nhiêu lần. 

Ngày hôm đó tôi ăn trưa tại nhà cậu tôi. Một lúc sau bữa ăn cậu tôi đi làm, tôi đi theo cậu đến sở rồi trở về nhà dì Plantier tìm mẹ. Tại đây tôi mới biết  mẹ tôi cùng dì có việc phải đi đến tối mới về. Tôi liền xuống trở lại phố, nơi ít khi tôi được đi dạo chơi tự do một mình. Tôi ra bến cảng đang lúc sương mù của biển bủa giăng nên cảnh vật buồn ảm đạm. Tôi lang thang một vài giờ trên những bến tàu. Bỗng nhiên tôi nảy ra cái ý muốn trở về nhà cậu để gây ngạc nhiên cho Alissa mặc dù tôi vừa mới rời nàng không lâu... Tôi bèn chạy bay qua phố, kéo chuông cửa nhà cậu Bucolin, và cửa vừa mở tôi đã phóng vụt lên cầu thang. Người vú ra mở cửa, chận tôi lại:
- Đừng lên, cậu Jérôme! Đừng lên: bà đang lên cơn. 

Nhưng tôi gạt phăng hết. Tôi đâu cốt đến tìm mợ tôi…Phòng Alissa ở tầng thứ ba. Tầng thứ nhất là phòng khách và phòng ăn, tầng thứ nhì là phòng của mợ tôi, nơi ấy phát ra nhiều giọng nói. Cửa phòng đang mở mà tôi lại phải đi ngang qua phía trước đó;  một tia sáng từ phòng chiếu ra hắt ngang chỗ bục cầu thang; vì sợ bị nhìn thấy tôi lưỡng lự giây lát, lẩn mình vào tường, và rồi sững sờ nhìn thấy cảnh tượng này: ở giữa phòng có màn buông rũ  xuống, những ngọn nến của hai chân đèn đang toả chiếu ánh sáng tươi vui, mợ tôi nằm trên chiếc ghế dài; dưới chân là Robert và Juliette; phía sau mợ tôi là một chàng trai trẻ lạ mặt mặc quân phục với cấp bậc trung úy. Ngày nay tôi thấy sự có mặt của Juliette và Robert trong gian phòng lúc ấy là quái gở nhưng với tâm hồn còn ngây thơ thủa ấy, tôi lại thấy mình an lòng hơn. Chúng vừa cười vừa nhìn kẻ lạ mặt đang lặp lại bằng một giọng réo rắt: 

- Bucolin! Bucolin!... Nếu tôi có một con cừu, nhất định tôi sẽ gọi nó bằng cái tên Bucolin. 

Cả mợ tôi cũng bật cười dòn dã. Tôi thấy mợ chìa một điếu thuốc cho chàng trai châm rồi đưa lại cho bà ta rít vài hơi. Điếu thuốc rơi xuống đất. Anh chàng vói tay ra để lượm lên, giả vờ vướng chân vào giải băng đeo lưng, té quỳ gối trước mặt mợ tôi... Nhờ vào cái trò hề chọc cười ấy, tôi lẻn băng mình qua không ai thấy. 

Tôi đã đến trước cửa phòng Alissa. Tôi chờ một lát. Tiếng cười nói từ tầng dưới vẫn vang  lên; và có lẽ vì thế mà đã át mất tiếng gõ cửa của tôi, bởi vì không nghe có ai trả lời. Tôi đẩy cửa và cửa mở ra một cách lặng lẽ. Gian phòng đã khá tối, nên tôi không nhận thấy ngay Alissa đang quỳ trên đầu giường, quay lưng về phía cái cửa kính có ánh sáng lờ mờ của ban ngày rọi xuống. Nàng ngoảnh mặt lại, nhưng vẫn không đứng lên, và khi tôi đến gần; nàng thì thầm hỏi: 

- Ồ! Jérôme, tại sao anh trở lại?
Tôi cúi xuống để hôn nàng; khuôn mặt nàng chan hòa nước mắt… 

Giây phút ấy định đoạt cả đời tôi; ngày nay khi nhớ lại tôi vẫn còn thấy kinh hãi bàng hoàng. Chắc chắn là thuở ấy tôi chỉ hiểu lờ mờ nguyên do nỗi cô đơn tuyệt vọng của Alissa, nhưng tôi cảm thấy sâu sắc là nỗi cô đơn tuyệt vọng ấy lại quá mãnh liệt đối với mảnh linh hồn bé nhỏ phập phồng hoang mang, và tấm thân mảnh dẻ đang run rẩy nức nở này. 

Tôi đứng yên bên cạnh Alissa vẫn còn đang quỳ. Tôi không biết làm sao diễn tả cho nàng biết nỗi rung cảm mới mẻ của lòng mình khi đó; tôi ép đầu nàng vào ngực tôi, và đặt môi mình lên trán nàng, lòng tràn đầy yêu thương. Đắm say trong tình yêu, lóng thương xót, trong một sự lẫn lộn mơ hồ của niềm hân hoan, sụ hy sinh quên mình, lòng đức hạnh, tôi hết lòng hết sức cầu xin Thiên chúa, và nguyện hiến dâng đời mình cho một mục đích duy nhất là gìn giữ cho người con gái này trước sự sợ hãi, trước những cái xấu xa, trước cuộc đời. Sau cùng tôi quỳ xuống lòng chứa chan những lời nguyện cầu. Tôi ôm sát nàng vào mình, mơ hồ  nghe tiếng nàng nói: 

- Jérôme! Họ không thấy anh lên đây chứ, có phải vậy không? Thôi! anh đi ngay đi! Đừng để họ trông thấy anh nhé. 

Rồi hạ thấp giọng hơn:
- Jérôme, đừng kể lại cho ai nghe hết. Cha đáng thường của em không hay biết gì đâu… 

Tôi không kể lại cho mẹ tôi gì cả; nhưng những lời xì xầm liên miên giữa dì Plantier và mẹ tôi, vẻ bí mật, lo âu, đau buồn của hai người, và câu "Này con, đi chỗ khác chơi đi!", mà họ hay dùng để đuổi khéo tôi mỗi lần tôi tiến lại gần khi họ đang thủ thỉ, tất cả cho thấy rằng hai bà không phải hoàn toàn không hay biết gì về sự bí ẩn trong gia đình cậu Bucolin. 

Chúng tôi vừa về lại Paris thì một bức điện tín gọi mẹ tôi trở lại Havre gấp: mợ tôi vừa bỏ nhà trốn đi! 

- Trốn đi với một kẻ nào đó, phải không? Tôi hỏi cô Ashburton vì mẹ tôi đã để tôi ở lại nhà với bà ấy.
- Con ạ, con sẽ hỏi điều ấy với mẹ con; chứ cô không thể trả lời cho con được; bà bạn già thân thiết của mẹ tôi buồn rầu nói, vì cái tin này cũng đang làm cho bà ta rụng rời. 

Hai ngày sau, cô và tôi cùng đi gặp mẹ tôi. Đó là một ngày thứ bảy. Tôi sẽ gặp lại hai cô em họ ở nhà thờ, và đó là điều duy nhất xâm chiếm ý nghĩ của tôi bởi vì trí non dại của tôi đặt nặng tầm quan trọng vào sự thánh hóa cuộc gặp gỡ này. Ngoài ra tôi không mấy bận tâm về việc mợ tôi bỏ đi, và hứa với lòng sẽ không hỏi gì mẹ tôi cả.

Sáng hôm ấy, trong nhà thờ không có đông người đi xem lễ. Mục sư Vautier, như có dụng ý, đã dùng những lời sau đây của đức Ki-tô cho vào trong bài giảng suy gẫm của mình: Con hãy cố gắng bước vào bằng khung cửa hẹp

Alissa ngồi phía trước cách tôi vài hàng ghế. Tôi thấy dáng một bên của nàng, tôi nhìn nàng đăm đăm đến nỗi như quên cả chính mình mà hình như  nghe qua nàng những lời này, và nghe một cách rất cuồng nhiệt. - Cậu tôi ngồi bên cạnh mẹ tôi và khóc.

Đầu tiên, vị mục sư đọc nguyên đoạn Phúc âm: "Con hãy gắng bước vào bằng khung cửa hẹp, vì cánh cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến sự hư mất linh hồn, và có biết bao kẻ đã đi qua rồi, nhưng nhỏ hẹp mới là khung cửa, và chật hẹp mới là con đường dẫn tới Sư Sống, và rất ít kẻ tìm ra". Rồi để làm rõ các phần của vấn đề, đầu tiên vị mục sư nói đến con đường thênh thang... Tôi quên hết mọi sự và như chìm trong giấc mộng, tôi thấy lại trong tâm trí căn phòng của mợ tôi; tôi thấy lại mợ tôi đang nằm dài, cười cợt, tôi thấy anh chàng sĩ quan hào nhoáng cũng đang cười, và thế là ý niệm về tiếng cười, về sự vui vẻ thôi cũng đủ gây tổn thương, sỉ nhục, trở thành như đó là sự phù trướng gớm guốc của tội lỗi!.. 

"Và có biết bao kẻ đã đi qua", mục sư Vautier nói tiếp; đoạn ông mô tả, và  tôi như nhìn thấy một đám đông người ăn mặc bảnh bao, cười đùa và cợt nhã kéo nhau đi làm thành một đám rước, và tôi thấy mình không thể, cũng không muốn tìm chỗ xen vào với họ, vì mỗi bước mà tôi đi cùng với họ sẽ làm tôi cách xa  Alissa ra thêm.-  Rồi vị mục sư trở lại phần đầu của đoạn trích dẫn Phúc âm và tôi như thấy cái khung cửa hẹp mà con người phải cố gắng lách qua đó. Đang đắm mình trong cơn mộng, tôi hình dung nó ra như một thứ máy cán kim loại, mà tôi phải cố gắng tự dẫn mình lách qua với nỗi đau đớn dị thường, pha lẫn một niềm vui tiên cảm của sự toàn phúc mai sau ở Thiên đường. Và rồi cái khung cửa hẹp này lại trở thành chính cái khung cửa phòng Alissa; muốn đi vào, tôi phải thu mình lại, trút bỏ hết mọi cái ích kỷ trong tôi... "bởi vì  nhỏ hẹp mới chính là con đường dẫn tới Sự Sống",  mục sư Vautier vẫn tiếp tục giảng - và tôi suy nghĩ, linh cảm  như bên kia mọi khổ hạnh, mọi đau buồn, còn một niềm vui khác, thuần khiết, mhiệm mầu, thần tiên, mà linh hồn tôi đã bắt đầu khát vọng. tôi tưởng tượng niềm vui ấy như một khúc nhạc vĩ cầm vừa réo rắt vừa dịu dàng, như một ngọn lửa dữ dội thiêu đốt con tim của Alissa và của tôi. Cả hai chúng tôi trang phục toàn màu trắng cùng tiến lên như lời thánh kinh mặc thị trong thiên Apocalypse , nắm tay nhau cùng nhìn đăm đăm về một đích... Những mộng tưởng trẻ dại  này có làm bạn phì cười cũng không sao! tôi vẫn kể ra đây không thêm bớt gì cả. Và nếu khi nghe có thể như lẫn lộn, thì đấy chỉ là do ngôn từ và hình ảnh đã không đủ sức để phô diễn hết một cách chính xác. 

- Và rất ít kẻ tìm ra,  mục sư Vautier kết luận. Ông giải thích bằng cách nào để tìm ra khung cửa hẹp... Rất ít kẻ. Tôi sẽ nằm trong số những kẻ ấy... 

Tôi đã theo suốt bài giảng từ đầu cho đến cuối trong một trạng thái tâm hồn căng thẳng  đến độ thánh lễ vừa xong là tôi bỏ trốn không còn tìm gặp Alissa - vì kiêu hãnh, muốn đem ra thử thách ngay những điều vừa quyết định (bởi vì tôi đã quyết định rồi), và nghĩ rằng mình sẽ xứng đáng hơn nếu xa lánh nàng ngay lúc ấy.

Nguyên tác  La pote étroite
Tác giả   ANDRÉ GIDE  (1869-1951)
ÐOÀN VĂN KHANH dịch
theo
nguyên văn tiếng Pháp

No comments:

Post a Comment