Tùy bút
Thông thường,
ít ai thắc mắc về ý nghĩa của những cái tên được dùng
làm địa danh cho từng địa phương. Do đó mà có lẽ đối
với nhiều người, hai tiếng Bình Ðịnh cũng chỉ là một
danh từ thông thường được dùng làm địa danh để gọi
một vùng như bao nhiêu từ địa danh khác trên mảnh đất
Việt nam. Thế nhưng, đối với tôi, hai tiếng "Bình Ðịnh"
không những chỉ đơn thuần là một địa danh mà Bình Ðịnh
còn gợi lên cho tôi một ý nghĩa lịch sử.
Thật ra Bình Ðịnh
không phải là quê hương tôi, nhưng Bình định lại là nơi
tôi đã sống suốt thời kỳ thơ ấu và niên thiếu với không
biết bao kỷ niệm vui buồn in hằn lên tâm khảm tôi không
bao giờ quên được. Do đó những gì là Bình Ðịnh hình như
cũng có chút liên quan với tôi cũng như tôi hay nghĩ về xứ
sở và con người Bình Ðịnh. Tuy nhiên, không phải đợi đến
khi lớn lên, học lịch sử, biết suy nghĩ, tôi mới lẩn thẩn
nghĩ quanh về hai tiếng "Bình Ðịnh" mà ngay từ thủa mới
theo cha mẹ đặt chân vào vùng đất này, mỗi khi nghe hai tiếng
"Bình Ðịnh", mặc dù chưa hiểu được ý nghĩa của hai tiếng
này, tôi cũng đã thấy có một ấn tượng không vui và hình
như hai tiếng này lúc nào cũng gợi lên cho tôi những suy nghĩ
vẩn vơ.
Cái hình ảnh
đầu tiên của tôi về Bình định là hình ảnh một vùng
đất có những ngôi tháp Chàm hoang phế với những câu chuyện
về ma Hời đã ám ảnh tâm hồn thơ ấu của tôi với một
nỗi buồn mông lung. Và cũng chính tại vùng đất này tôi
đã sống và lớn lên trong cái nhiễu nhương ly loạn và đảo
điên của một giai đoạn lịch sử đầy đau thương của
dân tộc, đồng thời cũng đã đánh mất đi rất nhiều ước
mơ trong sáng của mình.
Tuổi cắp sách
đến trường, phải tụng những bài học lịch sử được
người ta cố tình bóp méo để giảng dạy cho học sinh theo
quan điểm chính trị mâu thuẫn nhau của từng giai đoạn,
từng chế độ mà tôi phải sống trong đó, tôi đã nghiệm
được bài học không phải lịch sử mà là cái ý nghĩa đằng
sau bài học lịch sử. Và chính vì thế mà tôi cảm nhận
ra một điều: "Bình Ðịnh" đây cũng là một điểm tiêu biểu
cho những cái nghịch lý của con người và lịch sử dân tộc.
Khi mỗi địa
phương được đặt cho một cái tên để gọi, người ta vẫn
muốn cái tên ấy nói lên được một cái ý nghĩa nào đó,
hoặc là để diễn tả một đặc trưng, đánh dấu một sự kiện, ghi nhớ một biến cố của địa phương đó, hoặc
có khi nhằm biểu tượng cho một hoài vọng. Mà quả thế!
Trước khi vùng Bình định được gọi là "Bình Ðịnh", nó
mang nhiều cái tên khác có một ý nghĩa nói lên cái ước
vọng cao đẹp của con người. Cái tên "Bình Ðịnh" chỉ mới
có từ sau khi nhà Nguyễn khôi phục lại cơ nghiệp đã bị
mất về tay nhà Tây Sơn, và "Bình Ðịnh" chính là một dấu
ấn chính trị của một triều đại đã in lên vùng đất
này trong giòng lịch sử dân tộc mà người dân vùng này phải
lãnh nhận đã từ hai thế kỷ nay.
Có thể nói lịch
sử Việt Nam là một lịch sử của những nghịch lý. Một
dân tộc có ý chí quật cường chống ngoại xâm, dù có trải
qua một ngàn năm nô lệ vẫn không bị diệt vong mà còn giành
lại được độc lập, lại còn tiêu diệt cả Chiêm Thành
và xâm lấn luôn cả Chân Lạp. Nhưng lịch sử Việt nam cũng
là lịch sử của không biết bao nhiêu cuộc nội chiến triền
miên và thời cận đại là một giai đoạn điển hình cho
tính chất mâu thuẫn và nghịch lý nhất của dân tộc Việt nam. Những cuộc phân
tranh, những lần chạy chọt đi cầu
viện nước ngoài để diệt kẻ thù là người trong cùng một
nước, những sự giết hại nhau chỉ vì tự cho mình là chính
nghĩa hoặc phò chính nghĩa, rốt cuộc chỉ toàn là cảnh "nồi
da xáo thịt" và "gà nhà bôi mặt đá nhau". Hoàn cảnh chinh
chiến, phải giết chóc kẻ khác để mong mình được sống,
khiến con người càng dễ bộc lộ cái bản chất của mình.
Bên cạnh những sự hy sinh hỷ xả, gương dũng cảm, đức
thương người thì cũng không thiếu gì những hình ảnh dã
man độc ác của những hành động phát sinh từ cái thú tính
còn sót lại và cái lòng thù hằn, nhỏ nhen, ích kỷ của
con người chỉ vì ham quyền bính, mưu ích lợi riêng tư hay
cho gia đình, bè phái.
Trở lại với
Bình Ðịnh, trước thế kỷ 15, vùng đất này còn mang tên
Ðồ Bàn và hãy còn là lãnh thổ của vương quốc Chàm, với
một nền văn minh rực rỡ mà ngày nay vẫn còn lưu lại nhiều
dấu tích. Kinh đô Ðồ Bàn đã từng có một thời lừng lẫy,
và lịch sử dân Chiêm cũng đã có những thời kỳ huy hoàng
với những chiến công oanh liệt: người Chiêm đã từng đánh
phá kinh thành Thăng Long của nước Việt, đã từng đẩy lui
mười vạn hùng binh của nhà Nguyên do Toa Ðô thống lĩnh từ
Trung quốc theo đường thủy kéo sang xâm lăng, đã phá tan
quân Việt và giết được cả vua nhà Trần định vào chiếm cứ.
Nhưng sự suy thoái
của vua quan Chiêm Thành trong những thế kỷ sau đó dần dần
đã làm cho vương quốc Chiêm suy yếu, do đó mà đến đời
vua Lê Thánh Tôn, quân Việt đã chiếm được kinh đô Ðồ
Bàn. Vua Lê Thánh Tôn cho sát nhập phần đất Ðồ Bàn này
vào lãnh thổ Việt và đặt tên là Phủ Hoài nhơn, phủ lỵ
đóng tại thành Ðồ Bàn cũ.
Một thế kỷ
trôi qua trên vùng đất này với dân tộc Chiêm cứ suy vong
lần còn người dân Việt thì hình như vẫn còn thích bám
víu với quê hương cũ. Trong khi đó nhà Lê sau đời vua Lê
Thánh tôn thì cũng không còn một ông vua anh minh nào kế vị
lãnh đạo đất nước cho nên Mạc Ðăng Dung mới tiếm quyền
và nhà Mạc có cơ hội dựng nghiệp. Nhờ công Nguyễn Kim
và rể là Trịnh Kiểm cho nên nhà Lê lại trung hưng nhưng
vua Lê bây giờ chỉ còn là cái bình phong để cho hai họ Trịnh
Nguyễn xâu xé nhau.
Cảnh Nam Bắc
Triều giữa Lê và Mạc chưa dứt thì đã xảy ra cái nạn
Nam Bắc phân tranh. Sau khi Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh
Kiểm vì muốn tranh quyền nên đã giết hại em vợ là Nguyễn
Uông. Nguyễn Hoàng vì muốn tránh bị anh rể mưu hại, đã
nghe theo lời dạy của Trạng Trình "Hoành sơn nhất đái, vạn
đại dung thân" mà xin vào trấn thủ vùng Thuận Hoá để tìm
sự sống. Vì muốn thuận với chút chính nghĩa theo đạo lý
Nho gia mà cả Trịnh lẫn Nguyễn chỉ xưng chúa nhưng lại
cứ mượn danh nghĩa phò Lê để tiêu diệt nhau ngõ hầu tóm
thâu quyền hành, do đó mà tạo nên cuộc Nam Bắc phân tranh
trong hai thế kỷ.
Nguyễn Hoàng kể
từ khi được vào trấn thủ đất Thuận Hoá đã cho mở mang
các vùng phía Nam để củng cố tiềm năng cho mình. Ðất Ðồ
Bàn kể từ ngày trở thành lãnh thổ Việt nam đến nay nhờ
chúa Nguyễn Hoàng mà bắt đầu thay đổi bộ mặt. Thời gian
này, những người Việt nam từ các tỉnh phía Bắc bị bắt,
bị đày hay theo chân chúa Nguyễn đã lần lần vào đây lập
nghiệp và biến đổi vùng đất này thành quê hương của
mình. Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt đã xua đuổi người
Chiêm Thành ra khỏi giang sơn của họ. Dân tộc Chiêm suy vong
để cho dân tộc Việt hưng thịnh. Cái tên phủ Hoài Nhơn
nay được Nguyễn Hoàng đổi ra Qui nhơn.
Qua hai trăm năm
đổ mồ hôi, máu và nước mắt xây dựng vùng đất mới
này, những người di dân Việt đã đối xử với người Chiêm
Thành như thế nào sử ta không chép, còn người Chiêm thì
cứ bị tiêu diệt dần và cũng không còn nước để ghi lại
những trang sử oán hờn của mình.
Những cái tên
Hoài Nhơn hay Qui Nhơn theo chữ Hán đều có vẻ biểu lộ một
ý nghĩa nhân bản. Nhưng những người dân Việt đến định
cư trên vùng đất mới này đã hành xử như thế nào? Nếu
họ đã thành công trong việc làm cho mảnh đất này thành
quê hương vĩnh viễn của chính mình thì trái lại hình như
họ chưa bao giờ thành công trong việc tạo dựng nó thành
một miền đất hoà bình và thịnh vượng cho con cháu.
Những con người
lãnh đạo vùng đất mới này cũng vẫn quen cái nề nếp cũ:
chúa thì dần dần suy nhược và triều thần thì sanh ra bè
phái tranh giành quyền lợi, do đó mà tới thời chúa Nguyễn
Phúc Khoát, gian thần Trương Phúc Loan mới chuyên quyền và
lộng hành, Khi Phúc Khoát chết, Loan lại tự thay đổi di chiếu,
lập Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên nối ngôi, thanh trừng
nội bộ nhà Nguyễn, quan lại thì thối nát, xứ sở lại
mất mùa sinh ra loạn lạc, nhân dân đồ thán.
Thấy cảnh bất
công cùng cực, con cháu của những người di dân xưa đã nổi
lên đi làm lịch sử. Ba anh em Tây Sơn dùng chiêu bài "diệt
quyền thần Trương Phúc Loan", và "phò hoàng tôn Nguyễn Phúc
Dương", dấy nghĩa binh đánh Nguyễn, nhân dân nức lòng hưởng
ứng, khí thế bùng lên khiến quan quân chúa Nguyễn không chống
nổi, bỏ thành mà chạy. Nguyễn Nhạc lấy Qui nhơn làm căn cứ, rồi từ đó đánh vào Nam, đánh ra
Bắc.
Trong lúc Tây Sơn
nổi dậy ở Qui Nhơn thì Chúa Trịnh cũng muốn nhân lúc Ðàng
Trong gặp rối ren để tiêu diệt chúa Nguyễn bèn sai Hoàng
Ngũ Phúc đem quân vào chiếm Phú Xuân. Chúa Nguyễn phải chạy
vào Quảng nam. Nguyễn Nhạc cũng thừa cơ hội vừa chiếm
được Quảng Ngãi bèn tiến đánh luôn Quảng Nam. Chúa Nguyễn
phải bỏ chạy vào Gia Ðịnh. Nguyễn Nhạc bắt được Hoàng
tôn Dương đem về Qui Nhơn và gả con gái cho, nhưng Hoàng tôn
Dương sau đó đã trốn vào Nam theo chúa Nguyễn.
Vì Tây Sơn chiếm
được Quảng nam cho nên bây giờ Trịnh và Tây Sơn bắt đầu
giáp mặt nhau. Nguyễn Nhạc thấy lực lượng của Tây Sơn
chưa đủ để chống Trịnh bèn lập kế hoà hoãn, xin làm
tiên phong đánh Nguyễn. Chúa Trịnh phong cho Nguyễn Nhạc trấn
thủ Quảng Nam, lại sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem ấn kiếm vào
ban cho anh em Tây Sơn.
Hoà hoãn được
với Trịnh ở mặt Bắc rồi, Nguyễn Nhạc liền sai Nguyễn
Huệ đánh lấy Phú Yên, sau đó lại sai Nguyễn Huệ và Nguyễn
Lữ vào Nam đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn và hoàng tôn Nguyễn
Phúc Dương đều tử trận. Dòng họ chúa Nguyễn bị tiêu
diệt chỉ còn sót lại Nguyễn Ánh nuôi chí phục thù. Diệt
được chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc liền xưng vương, lấy hiệu
là Thái Ðức, sửa sang thành Qui Nhơn làm kinh đô, phong cho
Nguyễn Lữ là Ðông Ðịnh vương đóng giữ Gia Ðịnh và phong
cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính.
Vốn có biệt
tài về quân sự nên Nguyễn Huệ xuất quân lần nào cũng
thắng trận. Mỗi lần Nguyễn Huệ kéo quân vào Nam là Nguyễn
Ánh thua chạy. Sau mấy phen phải trốn ra đảo Phú Quốc, Nguyễn
Ánh bèn sang Xiêm cầu viện. Hai chục ngàn quân và ba trăm
chiến thuyền cứu viện của quân Xiêm sang cứu viện cho chúa
Nguyễn, bị Nguyễn Huệ dùng kế phục binh đánh cho một trận
tan tành tại Soài Mút thuộc địa phận Mỹ Tho, chỉ còn vài
ngàn tàn binh trốn chạy về nước. Tuy nhiên, vì không bắt
được Nguyễn Ánh và quân Tây Sơn chỉ vào đánh rồi lại
rút về nên Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục chiêu binh chờ cơ phục
hận.
Trong khi quân Tây
Sơn dẹp Nguyễn ở trong Nam thì ngoài Bắc cũng rối ren với
nạn Kiêu binh. Nguyễn Hữu Chỉnh là thuộc tướng của Hoàng
Ðình Bảo. Vì muốn tôn Trịnh Cán lên ngôi chúa nên Hoàng
Ðình Bảo bị quân Tam Phủ thuộc phe ủng hộ Trịnh Khải giết. Nguyễn Hữu Chỉnh vốn trước đã từng mang ấn kiếm
của chúa Trịnh vào ban cho anh em Tây Sơn nên nay gặp lúc Kiêu
binh làm loạn ở Kinh thành, Chỉnh sợ liên lụy bèn bỏ trốn
vào Qui Nhơn thần phục Tây Sơn. Nguyễn Hữu Chỉnh đem tình
hình Bắc Hà trình báo cho Tây Sơn và bày mưu cho Tây Sơn đánh
Trịnh. Theo lời bàn của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Nhạc
sai Nguyễn Huệ thống lĩnh đại binh và phong cho Chỉnh làm
Hữu quân đem hai đạo thủy bộ đánh chiếm thành Phú Xuân.
Thừa thắng Nguyễn Huệ cho quân đánh ra Quảng Bình, rồi
vẫn theo kế hoạch của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ không
đợi hỏi ý Nguyễn Nhạc mà tự mình cầm quân kéo thẳng
ra Bắc với danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh.
Quân Tây Sơn qua
Nghệ An, Thanh Hoá không gặp sự kháng cự đáng kể nào. Sau
đó, thắng thủy binh của Ðinh Tích Nhưỡng ở Lỗ giang, đánh
tan đại binh của Trịnh Tự Quyền đóng giữ tại Kim Ðộng
rồi chiếm luôn Sơn Nam, Nguyễn Huệ tiến thẳng ra Bắc, đánh
úp được thủy binh Trịnh dưới quyền Quận Thạc tại cửa
sông Thúy Ái, thắng Trịnh Khải ở Tây Luông. Trịnh Khải
chạy trốn bị dân bắt đem nộp Tây Sơn bèn tự đâm cổ chết. Thế là quân Tây Sơn tiến thẳng vào Thăng Long.
Ðể tỏ ý phò
Lê, Nguyễn Huệ dẫn đám tùy tướng vào làm lễ triều yết
và đệ trình lên vua Lê Hiển Tông sổ quân dân của Tây Sơn.
Vua Lê phong cho Nguyễn Huệ làm Ðại Nguyên Súy Phù Chính Dực
Vận Uy Quốc Công. Sau đó cũng do sự mai mối của Nguyễn
Hữu Chỉnh mà vua Lê đã đem con gái là Ngọc Hân Công chúa
gả cho Nguyễn Huệ.
Thấy Nguyễn Huệ
tự ý kéo quân ra Bắc và tạo được thanh thế cho riêng mình
nên Nguyễn Nhạc sinh nghi bèn kéo quân ra Bắc để kiềm chế Huệ. Nguyễn Huệ dù có mộng lớn nhưng thấy đất Bắc hà
vẫn nặng lòng với nhà Lê và tỏ vẻ coi Tây Sơn chỉ như
là đám thổ hào, do đó mà sau khi vua Hiển Tông mất, Lê Chiêu
Thống lên nối ngôi rồi thì Nguyễn Huệ cũng theo Nguyễn
Nhạc rút quân về Nam. Nguyễn Nhạc phong cho Huệ là Bắc Bình
Vương, cai quản các vùng từ Quảng nam ra đến Nghệ an và
đóng đô ở Thuận hoá.
Sau khi Tây Sơn
rút khỏi Bắc Hà rồi thì tình hình đất Bắc lại trở nên
rối loạn như rắn không đầu. Lê Chiêu Thống lên ngôi nhưng
nhà Lê với một đám văn quan quen ngồi chơi xơi nước đã
bao đời nay, mọi việc do phủ chúa quyết định, nay Trịnh
không còn mà Tây Sơn cũng bỏ đi nên không biết làm sao điều
khiển được triều chính. Các võ tướng thì lại đua nhau
đi tìm Trịnh để phò. Trịnh Lệ và Trịnh Bồng lại nhảy
ra tranh giành nhau cái phủ chúa, ức hiếp vua Lê như cũ. Trịnh
Bồng đuổi được Trịnh Lệ bèn tái lập ngôi chúa.
Khi Nguyễn Hữu
Chỉnh thấy Tây Sơn âm thầm rút quân bỏ mình ở lại giữa
chốn Bắc hà với một đám quần thần đang thù ghét Chỉnh
thì sợ quá, vội chạy theo đến Nghệ An cho nên được Nguyễn
Huệ thương tình cho ở lại trấn đất Nghệ An. Thấy mình
ở vào cái thế Tây Sơn không tin mà Bắc hà không phục, Nguyễn
Hữu Chỉnh nhân dịp được trấn thủ Nghệ An bèn giả danh
phò Lê để chiêu binh mãi mã lập kế phòng thân. Còn Lê Chiêu
Thống khi bị Trịnh Bồng ức hiếp mà nhìn quanh thấy không
còn ai có thể giúp mình bèn mật chiếu nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh
ra giúp. Quân Nghệ An rầm rộ tiến ra. Trịnh Bồng chạy trốn
và họ Trịnh cũng chấm dứt từ đó. Vua Chiêu Thống sai đốt
tan phủ Chúa để xóa tan dấu vết của một uy quyền đã
áp chế dòng họ mình trên hai thế kỷ.
Nguyễn Hữu Chỉnh
nhờ phá tan quân Trịnh Bồng mà uy thanh nổi dậy. Sẵn cờ
đến tay liền phất nên Nguyễn Hữu Chỉnh bèn lo củng cố
thế lực cho mình và muốn nối ngôi chúa Trịnh. Chính sách
hà khắc của Chỉnh làm cho dân chúng ta thán. Hay tin Nguyễn
Hữu Chỉnh chuyên quyền ngoài Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn
Nhậm ra trấn Nghệ an và cử binh ra Bắc hỏi tội Chỉnh.
Nhậm góp nhặt ở Bố chính, Thanh Nghệ được hơn 30.000 quân,
bắt đầu tiến ra Bắc đánh tan được các tướng của Chỉnh
sai đi trấn giữ. Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự cầm quân nhưng
cũng không đương cự nổi bèn lẻn về kinh thành khóc với
Chiêu Thống rồi cùng vua Lê đang đêm vượt sông trốn sang
Kinh Bắc. Vũ Văn Nhậm vào thành Thăng Long cho quân đuổi theo
bắt được Chỉnh đem về xử tử bêu đầu cho công chúng xem.
Trong khi Nhậm
đang ở Thăng Long thì tại Qui Nhơn Nguyễn Nhạc và Nguyễn
Huệ lại xảy ra chuyện bất hoà. Vì nghi Nguyễn Huệ tranh
phần với mình nên Nguyễn Nhạc giữ vợ con của Nguyễn Huệ
ở Qui Nhơn không cho về Thuận Hoá. Nguyễn Huệ kéo quân vây
thành Qui Nhơn. Nguyễn Nhạc phải leo lên mặt thành khóc rồi
trả vợ con cho Nguyễn Huệ để giảng hoà. Vũ Văn Nhậm vốn
là rể của Nguyễn Nhạc, thấy nội bộ nhà Tây Sơn lục
đục nên sau khi giết được Chỉnh không chịu tuân theo lệnh
của Nguyễn Huệ gọi về Phú xuân mà chỉ lo củng cố thế
lực riêng cho mình. Sẵn cớ vua Chiêu Thống bỏ chạy khỏi
kinh thành nên Nhậm nghe lời một Lê thần, đặt Sùng nhượng
công Lê Duy Cẩn lên làm Giám quốc. Ngô Văn Sở vốn được
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai kềm cặp dò xét Nhậm, thấy
Nhậm muốn noi gương Nguyễn Hữu Chỉnh nên mật báo về Phú
Xuân.
Ðược tin này,
Nguyễn Huệ bèn tức tốc kéo quân ra Bắc. Ðại binh Bắc
Bình Vương có cả Ngọc Hân Công chúa cùng hộ giá tiến vào
Thăng Long đầy uy thế khiến Vũ Văn Nhậm không dám chống cự. Nguyễn Huệ đến thẳng dinh của Nhậm tuyên đọc bản
án rồi sai võ sĩ bắt Nhậm, sau đó Nhậm bị trói phơi nắng
ngoài pháp trường một ngày cho công chúng xem rồi mới bị
xử trảm. Sau khi xử xong Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ thấy lòng
người Bắc Hà vẫn còn hướng về nhà Lê nên giao việc trấn
giữ các trấn cho các tướng Tây Sơn còn về hành chánh thì
giao cho Ngô Văn Sở và một số cựu thần nhà Lê ra quy phục
trông coi rồi lại lui về Phú Xuân.
Về phần Lê Chiêu
Thống sau khi bỏ trốn khỏi Thăng Long, lên nương náu tại
đất Lạng Giang liền cử người sang cầu cứu nhà Thanh. Vua
Càn Long lâu nay thấy tình hình nước Việt rối ren đã dòm
ngó sẵn nay sẵn cớ vua Lê cầu viện bèn sai Tổng đốc Lưỡng
Quảng là Tôn Sĩ Nghị đem 200.000 quân thuộc bốn tỉnh Quảng
Ðông, Quảng Tây, Qúy Châu và Vân Nam từ ba mặt Tuyên Quang,
Cao Bằng, Lạng Sơn tràn xuống Thăng Long. Ngô Văn Sở và các
tướng Tây Sơn thấy giặc đang mạnh, liệu thế chống không
nổi nên đã theo lời bàn của Ngô Thì Nhậm lui về giữ Tam
Ðiệp để bảo toàn lực lượng rồi cấp báo về Phú Xuân.
Một lần nữa Nguyễn Huệ lại đem quân ra Bắc dẹp giặc.
Nếu Nguyễn Huệ
lâu nay còn do dự chưa dám trực tiếp nắm lấy đất Bắc
là vì thấy đám Nho thần ở Bắc Hà vẫn mang nặng lòng với
nhà Lê, nhưng nay vua Lê lại đi rước quân Thanh sang, rồi
lại chỉ lo trả thù những kẻ theo Tây Sơn và chầu chực
qụy lụy trước trướng giặc, bất lực trước cảnh dân
chúng bị giặc ức hiếp, nên Nguyễn Huệ đã có được chính
nghĩa: cứu dân giành lại giang sơn. Do đó mà để chính danh,
Nguyễn Huệ bèn làm lễ tế cáo Trời Ðất rồi lên ngôi
Hoàng Ðế, đặt hiệu là Quang Trung, thống lĩnh thủy bộ
đại binh Bắc phạt.
Ra đến Tam Ðiệp,
vua Quang Trung trấn an Ngô Văn sở và Ngô thì Nhiệm, phủ dụ
các tướng tá rồi cho quân ăn Tết trước và hẹn sẽ ăn
Tết Khai hạ ở Thăng Long. Ngày 30 tháng Chạp, Vua Quang Trung
kiểm điểm binh mã gồm một trăm ngàn quân và 300 thớt voi,
phân binh thành năm đạo: giao cho Ngô Văn Sở chỉ huy Tiền
quân, Hô hổ hầu lãnh Hậu quân, Ðô đốc Lộc và Ðô đốc
Tuyết chỉ huy Hữu quân và thủy quân, Ðô đốc Bảo và Ðô
đốc Mưu chỉ huy tả quân và tượng quân, còn tự mình điều
khiển Trung quân trực chỉ Thăng Long.
Ðêm Mùng Ba Tết Kỷ
Dậu vua Quang Trung dùng kế hư binh, không đánh mà hạ được
đồn Hà Hồi. Sáng Mùng Năm Tết, quân Tây Sơn đánh chiếm
đồn Ngọc Hồi. Ðề đốc Hứa Thế Hanh của nhà Thanh tử trận. Cùng lúc đó tại Khương Thượng, quân Tây sơn đồng
loạt tấn công. Tướng Thanh là Sầm Nghi Ðống phải thắt
cổ tự tử tại gò Ðống Ða. Ðại quân Tây Sơn tiến vào
Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ chạy về mạn Bắc, đến
địa phận huyện Phượng Nhãn phải vứt bỏ ấn tín để
thoát lấy thân. Quan quân nhà Thanh tranh nhau qua cầu phao. Cầu sập, chết hại vô số.Vua Lê Chiêu Thống cũng theo gót Tôn
Sĩ Nghị chạy sang Tàu. Chỉ trong vòng 5 ngày, vua Quang Trung
đã tiêu diệt và quét sạch quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi
bờ cõi. Thật là một chiến công vĩ đại nhất, hiển hách
nhất trong lịch sử của dân tộc. Ngày mùng Bảy Tết, đúng
như lời đã hứa, vua Quang Trung truyền mở đại tiệc khao
quân ăn Tết Khai hạ ở Thăng Long.
Sau khi đuổi quân
Thanh ra khỏi bờ cõi nước nhà, vua Quang Trung bèn một mặt
tỏ vẻ nhún nhường và nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời
Nhiệm vận động cầu hoà với vua Thanh để nối lại bang
giao giữa nước ta và Trung Hoa, mặt khác lo cải tổ nội chính,
thu dụng nhân tài và phát triển tiềm năng để mưu đồ việc
lớn. Vua Càn Long thấy việc chiến tranh không lợi nên cũng
nghe lời tấu của quần thần mà thuận cho hoà và phong cho
Nguyễn Huệ làm An Nam Quốc Vương, lại còn thuận cho bãi
bỏ lệ triều cống người bằng vàng đã có từ thời nhà
Lê.
Khi những con người
áo vải đất Tây Sơn vì cái tinh thần hào hiệp nổi lên
làm lịch sử lập nên nhà Tây Sơn, tưởng rằng lịch sử
sẽ mở ra một vận mệnh mới, nhưng lịch sử vẫn cứ là
cái vòng luẩn quẩn. Hai trăm năm phân tranh đã làm cho lòng
người dân Việt ly tán và với cái đầu óc sứ quân đã
từng có từ thủa nhà Ðinh mới giành lại quyền tự chủ
sau thời Bắc thuộc khiến cho cái tinh thần lãnh chúa vẫn
ngự trị trong tâm khảm những kẻ muốn làm anh hùng.
Nếu khi mới khởi
nghĩa, tinh thần nghĩa hiệp làm nô nức lòng người thì sau
khi đuổi Nguyễn và diệt Trịnh, nhà Tây Sơn cũng lại rơi
vào cái vòng luẩn quẩn của quyền bính và quyền lợi. Nguyễn
Hữu Chỉnh bỏ Trịnh theo phò nhà Tây Sơn chỉ vì muốn mượn
tay nhà Tây Sơn để trả thù cho mình, rồi vì cơ hội lại
muốn lên làm lãnh chúa nên bị Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm giết. Vũ Văn Nhậm được trấn thủ Bắc hà cũng manh tâm
làm lãnh chúa nên Nguyễn Huệ cũng phải xuống tay. Nguyễn
Huệ cũng đã từng đem quân vây thành Qui Nhơn chỉ vì Nguyễn
Nhạc muốn kềm chân Huệ khiến cho Nguyễn Nhạc cũng đã
phải lên đứng trên thành mà khóc kể tình nghĩa anh em với
Nguyễn Huệ để giảng hoà.
Trong ba anh em nhà
Tây Sơn thì Nguyễn Lữ có lẽ cũng an phận với phần đất
Gia Ðịnh được anh phong cho nhưng lại không đủ tài tạo
dựng nó thành một cơ sở vững chắc cho mình nên lại mất
về tay Nguyễn Ánh. Một Nguyễn Nhạc chỉ có đầu óc của
một lãnh chúa, thỏa mãn với những vật chất thừa hưởng
của vua chúa Chiêm thành và những của cải khuân được từ
những chuyến ra Bắc hà với danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh
nên cũng không dám nuôi tham vọng nào hơn là trông cậy vào
sự trấn thủ vùng biên cương được giao cho hai em và cầu
an với mảnh giang sơn nhỏ bé của mình. Chỉ có Nguyễn Huệ
có tài và có mộng lớn nhưng lại ở vào thế kẹt còn vướng
ông anh chỉ muốn làm lãnh chúa và lòng người còn rối rắm
vì cái lẽ tôn phò chính nghĩa của nền luân lý Nho gia.
Nhà
Tây Sơn dù có chấm dứt cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh nhưng
vì tính chất chia để trị nên vẫn không thực sự thống
nhất được tổ quốc. Thêm vào đó mộng lớn chưa thành
thì vua Quang Trung lại đột ngột mất sớm. Thái tử Quang
Toản lên nối ngôi mới có 12 tuổi, quyền hành bị Thái sư
Bùi Khắc Tuyên thao túng khiến cho nội bộ Tây Sơn bị phân
hóa chém giết lẫn nhau mà suy yếu đi, do đó mà Nguyễn Ánh
mới khôi phục lại được cơ nghiệp của nhà Nguyễn.
Cái đầu óc trung
quân và tôn thờ chính thống theo Nho giáo Trung Hoa của đám
sĩ phu Việt Nam đã làm cho một anh hùng Nguyễn Huệ dù đánh
Nam dẹp Bắc chưa hề một lần thất bại, đã từng đánh
tan quân Xiêm và quân Thanh cứu nước nhà khỏi rơi vào ách
nô lệ ngoại bang, vẫn không tranh thủ được trọn vẹn nhân
tâm. Một vài sĩ phu Bắc hà ra giúp Nguyễn Huệ như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Chú... vẫn không tránh khỏi những dèm pha chỉ
trích và khi nhà Tây Sơn đổ thì cũng đành phải vạ lây.
Ðiều này không phải chỉ có đối với đám sĩ phu Bắc Hà
hay sĩ phu Gia Ðịnh mà ngay tại quê hương của nhà Tây Sơn
vẫn có những người không thuần phục vị anh hùng áo vải.
Bên cạnh bao nhiêu võ tướng tài danh theo phò nhà Tây sơn
thì cũng có những nho sĩ danh tướng vẫn trung thành với chúa
Nguyễn như Châu Văn Tiếp, Ngô Tùng Châu, Ðặng Trần Thường v.v... chỉ vì đất Qui Nhơn được coi như là đất của chúa
Nguyễn. Chính vì thế mà Nguyễn Ánh vẫn tồn tại.
Sau khi Nguyễn
Ánh cầu viện Xiêm không thành bèn xoay ra nhờ sự giúp đỡ
của người Pháp nên lấy lại được đất Gia định. Nguyễn
Lữ thua chạy rồi chết. Nguyễn Nhạc già nua và vua Quang Trung
lại mất sớm, thái tử còn nhỏ không đủ tài nối nghiệp
vua cha cho nên Nguyễn Ánh lại sai quân ra đánh Qui Nhơn. Vua
Thái Ðức chống không nổi, phải cầu viện quân Phú xuân
của vua Cảnh Thịnh giải cứu. Quân Phú Xuân vào thành Qui
nhơn, chiếm giữ thành trì và tịch biên tất cả kho tàng.
Vua Thái Ðức thấy vậy, tức giận thổ huyết mà thác. Cảnh
Thịnh bèn phong cho con vua Thái Ðức là Nguyễn Bảo làm Hiến
công, ăn lộc một huyện, gọi là Tiểu Triều và Qui Nhơn
cũng không còn là kinh đô nữa.
Vào lúc nhà Tây
Sơn có cơ hội để thống nhất giang sơn gom quyền hành về
một mối thì vua Quang Trung lại không còn, vua Cảnh Thịnh
không đủ tài đức để nối nghiệp vua cha, khí thế nhà
Tây Sơn mỗi ngày một tan rã, nhân dân địa phương bị khốn
khổ vì giặc giã và nạn tham quan ô lại. Chính vì thế mà
chỉ vài năm sau Nguyễn Ánh đã chiếm được thành Qui nhơn.
Nguyễn Ánh đem quân vào thành, phủ dụ dân chúng rồi đổi
tên Qui nhơn ra Bình định. Sự đổi tên này hẳn nhiên là
mang một ý nghĩa rõ rệt. Trong hơn hai chục năm qua thành này
đã bị quân loạn tặc Tây Sơn chiếm cứ và nay chúa Nguyễn
đã "bình định" được.
Qua năm sau, vua
Cảnh Thịnh sai Trần Quang Diệu và Võ văn Dũng cử đại binh
vào đánh Qui Nhơn, khí thế rất mạnh, quân Võ Tánh phải
rút vào thành cố thủ. Nguyễn Ánh nghe tin thành Bình Ðịnh
bị Tây Sơn vây khốn bèn thống suất đại binh ra cứu viện,
nhưng không giải cứu nổi, bèn nghe theo lời Võ Tánh và Ngô
Tùng Châu bỏ việc giải vây mà kéo ra đánh lấy Phú xuân.
Quân tinh nhuệ của Tây Sơn dồn vào Qui nhơn nên Phú xuân
không còn lực lượng chống giữ. Vua Cảnh Thịnh và triều
thần phải bỏ chạy ra Bắc.
Trần Quang Diệu
và Võ văn Dũng nghe tin Phú xuân thất thủ, liền sai tướng
đem quân ra cứu. Quân ra tới Quảng nam thì bị quân nhà Nguyễn
chận đường phải trở lui. Trần Quang Diệu nổi giận đốc
quân ráo riết đánh thành. Võ Tánh liệu không còn có thể
giữ được thành Bình Ðịnh nữa, bèn viết thư sai người
đưa ra cho Trần Quang Diệu, yêu cầu đừng giết hại sĩ tốt
khi chiếm thành, đoạn sai chất củi khô, đổ thuốc súng
vào, tự đốt mà chết. Ngô Tùng Châu uống thuốc độc chết
theo. Trần Quang Diệu vào thành, tha cho toàn thể tướng sĩ
nhà Nguyễn và cho mai táng họ Võ, họ Ngô theo lễ. Nhưng nhà
Tây Sơn kể từ khi vua Quang Trung mất thì cái hùng khí không
còn cho nên đã mất Phú Xuân rồi thì cũng chẳng mấy chốc
mất luôn tất cả.
Sự thống nhất
giang sơn của Nguyễn Ánh không hẳn là do tài năng của Nguyễn
Ánh hay lòng người dân Việt đều quy về với họ Nguyễn
mà phần lớn là do cái thế của lịch sử và sự thừa hưởng
công lao của nhà Tây Sơn. Nếu không có Tây Sơn dứt Trịnh,
Nguyễn Huệ đánh tan quân Xiêm, đuổi sạch quân Thanh và vua
Lê phải bỏ chạy sang Tàu thì Nguyễn Ánh cũng khó gom được
trọn giang sơn về tay mình.
Nhà Tây sơn là
một Triều đại thật ngắn ngủi tuy nhiên cũng là một triều
đại có nhiều nghịch lý nhất trong một quốc gia vốn đầy
nghịch lý. Có thể nói triều đại Tây Sơn là một triều
đại của chinh chiến. Suốt hai mươi lăm năm lúc nào cũng
phải chiến đấu với kẻ thù và máu người dân lành phải
đổ để giữ nước hay tạo ra chiến công không phải là
ít. Khi chúng ta đọc sử chúng ta chỉ nghe nói quân ta tiêu
diệt mấy vạn quân Xiêm hay mấy chục vạn quân Thanh nên
chúng ta chỉ nghĩ đến cái hào quang của chiến thắng mà
quên đi bao nhiêu tử sĩ đã nằm xuống trong âm thầm để
làm nên trang sử vẻ vang này. Và trong cái cảnh nhiễu nhương
tranh chấp giữa phe này phe kia đã có bao nhiêu sinh mạng phải
hy sinh một cách phi lý chỉ vì chút quyền lợi riêng tư của
vài kẻ tranh quyền thống trị. Ngoài ra còn biết bao hy sinh
đau khổ và thương vong trong dân chúng, bao nhiêu là tài nguyên
và công trình mà con người đổ mồ hôi nước mắt để xây
dựng bị hủy hoại.
Triều đại Tây
Sơn đã làm vẻ vang dân Việt nhưng quân tướng nhà Tây Sơn
qua hai mươi lăm năm chiến đấu tàn sát sinh linh hẳn là không
ít. Tuy nhiên nếu nhìn lại đôi khi những người từng bị
coi là thảo khấu thổ hào đôi khi vẫn tỏ ra có một chút
nhân. Một Trần Quang Diệu tha cho quan quân nhà Nguyễn và tống
táng theo lễ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đã nói lên được
cái đức nhân trong khi Nguyễn Ánh nhân danh chính nghĩa và
đạo lý thì lại đã tỏ ra có những hành động vô cùng
dã man tàn ác không những khi xử tội vua tôi nhà Tây Sơn
mà ngay cả với những kẻ đã có công phò tá mình.
Có thể nói cái
bản chất thù hận của con người Việt nam được thể hiện
rõ nét nhất giữa triều đại Tây Sơn với triều Nguyễn
gia miêu. Chính vì tư thù mà quên đi nghĩa cả nên vua Quang
Trung vốn là một vị vua đã từng làm khiếp đảm quân Xiêm
và quân Thanh, từng là phò mã nhà Lê, từng được vua nhà
Thanh trọng nể cũng như từng có mộng lấy công chúa Trung
hoa và mở mang bờ cõi ngược lên phương Bắc đòi lại đất
bên Tàu thì cũng là một vị vua nằm xuống vẫn không yên
và theo truyền thuyết thì hài cốt còn bị khai quật, đầu
lâu bị xích xiềng giam vào ngục tối, chỉ vì do cái lòng
thù hận của Nguyễn Ánh.
Sau khi thống nhất
lãnh thổ, Nguyễn Ánh lên ngôi cửu ngũ, lấy niên hiệu là
Gia Long, chỉnh đốn mọi việc trong nước. Với cái niềm
tin tự cho mình là chính nghĩa thì khi nắm được quyền hành
trong tay việc trước tiên là muốn phá bỏ và xoá sạch những
gì được coi là của kẻ nghịch tặc. Ðể cai trị địa
hạt Ðồ Bàn cũ, nhà vua đổi phủ Qui Nhơn thành Bình Ðịnh
dinh, sau đó đổi dinh làm Trấn, lỵ sở đóng tại thành Bình
Ðịnh tức là thành Qui Nhơn cũ. Ðến đời vua Minh Mạng lại
học đòi theo lối nhà Thanh bên Tàu, đổi Trấn làm Tỉnh.
Bình định trấn đổi thành Bình định tỉnh từ đó.
Từ đời nhà
Lê đến đời nhà Tây Sơn, lỵ sở hành chánh tối cao của
địa phương đều đóng tại thành Ðồ Bàn cũ nhưng tới
thời Gia Long, vì muốn xoá bỏ những gì được coi là di tích
của Tây sơn nên nhà vua đã ra lệnh triệt hạ thành Ðồ
Bàn rồi lấy vật liệu đem xây thành mới cách thành cũ khoảng
10 km về phía nam. Tuy thành mới nhưng vẫn giữ tên là thành
Bình định. Thành Ðồ Bàn từ khi vào tay người Việt, trải
qua bao triều đại với mấy lần đổi tên chỉ còn trơ lại
một dãy gò sỏi với ngọn tháp Cánh Tiên và lầu Bát giác
cùng di tích vài bờ đất sụp lở...
Khi Tây Sơn khởi
nghiệp, người dân ở vùng đất này đã theo Tây Sơn làm
lịch sử. Nhưng nhà Nguyễn đã khôi phục được cơ nghiệp
cũ nên nhà Tây Sơn phải chịu kết án là ngụy triều.Người dân ở
vùng này do đó mà cũng bị coi như là một thứ ngụy dân
vì sống trên quê hương của Tây Sơn hoặc đã đi theo Tây
Sơn. Ðối với triều Nguyễn, đất Tây Sơn là nơi phát sinh
ra những tên loạn tặc và là kẻ thù không đội trời chung
của dòng họ chúa Nguyễn, cho nên khi diệt được nhà Tây
Sơn, vua Gia long đã dùng hai tiếng Bình Ðịnh để gọi vùng
đất Qui nhơn, và "bình định" hàm ý vùng đất này là vùng
đất phản loạn mà nay triều đình đã dẹp yên được. Với
bản án ngụy dân, người dân xứ này dù muốn dù không cũng
thấy mình bị phân biệt, do đó mà lúc nào cũng phải lo lắng,
sợ sệt và chỉ còn ao ước được sống yên thân bình thường
như mọi người dân khác. Có lẽ vì thế mà ngôn từ Bình
định có chữ "thàng" và ca dao Bình định cũng có câu "Bình
Ðịnh hay lo". "Thàng" có thể là âm đọc trại của chữ "thường".
Suốt một trăm năm mươi năm dưới triều nhà Nguyễn, người
dân Bình Ðịnh phải chịu sự chế tài này của nhà Nguyễn
nên lúc nào cũng lo và lúc nào cũng có một chút mặc cảm.
Vua Gia Long không
những chỉ đối xử tàn ác với quân dân nhà Tây Sơn, mà
ngay đối với các công thần đã giúp mình làm nên sự nghiệp
cũng bị nhà vua sát hại vì cho là mưu phản và có người
đã chết còn bị buộc tội, mồ mả bị xiềng như trường
hợp Lê Văn Duyệt. Ðiều này khiến cho nội bộ vẫn tranh
chấp, giặc giã vẫn nổi lên cho nên đất nước vẫn cứ
là rối loạn.
Trong suốt quá
trình lịch sử, biết bao lần những con người tự cho mình
là chính nghĩa thì đã hành xử chẳng chính nghĩa tí nào cả.
Chính vì quyền lợi tư riêng mà Chiêu Thống cầu viện Thanh,
Nguyễn Ánh hết cầu viện Xiêm thì lại quay ra tìm sự giúp
đỡ của người Pháp. Ðiều này đã mở đường cho Pháp
dòm ngó Việt nam. Mặc dù đã bắt đầu tiếp xúc với văn
minh Tây phương nhưng với cái đầu óc cổ hủ ảnh hưởng
ngàn đời phong kiến của Trung hoa nên vua quan nhà Nguyễn vẫn
khư khư với những quan niệm lỗi thời để mà bảo vệ cái
ngôi của mình chứ không biết canh tân đất nước theo trào
lưu tiến bộ của thời đại cho nên thống nhất chưa đầy
một thế kỷ, Việt nam lại bị Pháp xâm lược và bị chia
ra làm ba kỳ để trị. Người dân Việt lại phải rơi vào
cảnh lầm than và phải nhìn nhau xa lạ.
Khi vua quan nhà
Nguyễn nhu nhược đành chấp nhận nền đô hộ của Pháp
thì tại nhiều nơi cũng có những sĩ phu theo hịch Cần Vương
của vua Hàm Nghi chiêu mộ nghĩa quân chống lại sự xâm lăng
của người Pháp. Người dân Bình Ðịnh với truyền thống
chống ngoại xâm đã hăng hái gia nhập nghĩa quân của Mai
Xuân Thưởng và Tăng Bạt Hổ tham gia kháng chiến chống ngoại
thù. Dù cuộc kháng chiến không thành công và Mai Xuân Thưởng
bị tử hình, nhưng điều đáng nói là Mai Xuân Thưởng không
chết vì bị Pháp giết mà bằng mưu mô tàn nhẫn của một
ông quan nhà Nguyễn muốn vinh thân phì gia và bản án phản
tặc của Triều đình Huế.
Khi người Pháp
diệt được nhóm Cần vương của Mai Xuân Thưởng đã lấy
dải đất chạy dài ra cửa bể Thị nại nơi Pháp đã đổ
bộ và dùng làm căn cứ quân sự trong thời gian chống cự
với nghĩa binh Cần vương để thiết lập một lỵ sở mới
cho chính quyền bảo hộ tại địa phương thì cái tên Qui
nhơn cơ hồ mai một lại được người Pháp đem ra đặt tên
cho thành phố này. Non nửa thế kỷ sau, cơ quan Tỉnh của
Nam triều từ thành Bình định mới cũng dời về thành phố
Qui nhơn, thành Bình định được giao cho phủ An nhơn làm lỵ
sở. Ðối với người Pháp chắc không có sự cân nhắc ý
nghĩa của từ dùng làm địa danh cho một địa phương mà
có lẽ chỉ là lấy lại một cái tên cũ. Tuy nhiên đối với
lịch sử thì sự đặt tên này có thể xem như một sự phục
hồi cho một cái tên đã bị xóa bỏ.
Cuộc khởi nghĩa
mùa thu 1945 lật đổ chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn đã khôi
phục lại cái hào khí của nhà Tây sơn. Nhưng người dân
Việt qua một ngàn năm Bắc thuộc và một ngàn năm tự chủ
nhưng vẫn lệ thuộc vào nền văn hóa Trung Hoa thì dù muốn
dù không vẫn không thoát ly được cái đầu óc phong kiến
chỉ thích mộng bá đồ vương hoặc là tôn phò minh chúa,
khiến cho người Việt Nam dù miệng có hô hào cách mạng nhưng
đầu óc thì vẫn rặc những ý tưởng cổ hủ để khoác
cho mình cái tiếng chính nghĩa và gán cho kẻ khác là giặc
để tiếp tục tàn sát nhau. Với chiêu bài "kháng chiến chống
Pháp giành Ðộc lập", người Cộng sản Việt nam đã nhân
danh "vì an ninh Tổ quốc" để giết hại không biết bao nhiêu
là đồng bào anh em của mình chỉ vì họ không đồng một
quan điểm. Sau chín năm bắt người dân hy sinh và chịu đựng
không biết bao gian khổ nhưng độc lập vẫn chỉ là một
cái gì rất mù mờ, đất nước lại bị qua phân theo ý đồ
của ngoại bang và người cùng một nước lại bắt đầu
chụp cho nhau những cái nhãn hiệu này hay nhãn hiệu nọ để
tiếp tục chém giết nhau không xa xót, rốt cuộc vẫn cứ
là "gà nhà bôi mặt đá nhau" và rơi vào cảnh "trai cò tranh
nhau, ngư ông đắc lợi".
Tại miền đất
Bình Ðịnh, sau cuộc khởi nghĩa 1945, nguời dân cũng đã mấy
lần chứng kiến mảnh đất này sang tay cũng như đã lãnh
nhận không biết bao là tang thương của chiến tranh. Chín năm
kháng chiến chống Pháp người Bình Ðịnh đã tuân hành lệnh
tiêu thổ kháng chiến của Việt minh san bằng thành phố Qui
Nhơn và triệt hạ thành Bình định. Dù bị phá hoại san bằng,
cái tên Qui Nhơn vẫn còn đó và thành Bình định vẫn còn
là một địa danh được nhắc nhở.
Hiệp định Genève
buộc người Cộng sản ra đi tập kết để cho người Quốc
gia tiếp quản. Người Quốc gia đã xây dựng lại thành phố
Qui Nhơn và cũng đã hỗ trợ cho nhân dân chung sức góp công
góp của xây cất điện thờ Tây Sơn để khôi phục lại
hào quang của một triều đại đã bị nhà Nguyễn bôi xóa
dấu tích và một thế kỷ rưỡi người dân địa phương
chỉ dám tưởng nhớ trong âm thầm. Người anh hùng chống
Pháp thủa Cần vương cũng được dân chúng xây lăng tưởng niệm.
Người Quốc gia
dù có cố gắng biện minh cho cái chính nghĩa của mình, nhưng
với một nền độc lập chỉ có nửa giang sơn thừa hưởng
từ sự ra đi của người Pháp với sự giúp đỡ của người
Mỹ mà lại phải nhận cái di sản của chế độ thực dân
thì chính nghĩa vẫn là một cái gì rất mập mờ. Do đó mà
lòng người vẫn phân hóa và người Cộng sản với chiêu
bài "giải phóng" vẫn tiếp tục huy động được những con
người còn mê say với những quan niệm yêu nước thương nòi
cổ hủ và hẹp hòi để phục vụ cho những mưu đồ xích
hóa dân tộc của họ. Chiến tranh lại tiếp tục và riêng
tại vùng đất của những người anh hùng đất Tây Sơn xưa,
những du kích Cộng sản đã lợi dụng địa thế núi non thâm
u của những nơi tôn kính này để núp bắn người Quốc gia.
Sau hai thập niên
tương tàn, người Cộng sản cũng do thời cơ lịch sử mà
chiếm trọn được miền Nam thống nhất đất nước. Chính
quyền Miền Nam bị gọi là ngụy quyền và quân đội Miền
Nam bị gọi là ngụy quân. Lại bắt bớ, giết chóc, tù đày,
hành hạ để trả thù vì cái tội làm việc, đi lính cho kẻ
không có chính nghĩa chỉ vì thua trận. Người dân Bình Ðịnh
trong chín năm kháng chiến bị coi là Việt minh rồi qua hai
mươi mốt năm sống dưới chế độ quốc gia nửa bên này,
nửa bên kia để chém giết nhau, trả thù nhau, bây giờ trở
lại với chế độ Cộng sản bỗng trở thành ngụy dân một
lần nữa.
Người Cộng sản
huyênh hoang với chính nghĩa và sự thành công của cuộc chiến
tranh giải phóng để khai thác và bóc lột người dân, và
dành đặc quyền đặc lợi cho một nhóm người được ưu
đãi, trong khi người dân Bình Ðịnh cũng như những người
dân miền Nam khác âm thầm tìm cách bỏ nước ra đi. Phải
chăng họ là những kẻ phản bội Tổ quốc? Chính người
Cộng sản đã trả lời thay cho họ. Qua bao nhiêu thất bại
và đổ vỡ về kinh tế, người Cộng sản chợt nhìn thấy
những kẻ mình xua đuổi ruồng bỏ trở nên khấm khá nơi
quê người vẫn không nỡ dứt bỏ chút tình nghĩa ở quê
nhà nên vẫn gửi tiền về giúp đỡ những người thân xấu
số. Người Cộng sản được món bổng ngon nay quay lại gọi
họ bằng "khúc ruột ngàn dặm".
Từ khi người
dân Việt vào đây xây dựng vùng đất này, biết bao mồ hôi
nước mắt cùng xương máu đã đổ ra. Thành Ðồ bàn của
Chiêm thành đã được Nguyễn Nhạc sửa sang thành kinh đô
của mình rồi lại bị vua nhà Nguyễn cho phá hủy để xây
thành Bình Ðịnh nhưng rồi cũng bị tàn phá bằng chính bàn
tay người Việt, và đến nay thì không còn di tích. Người
Pháp khi đặt cơ sở cho sự đô hộ vùng đất này đã xây
dựng một thành phố bên cửa biển Thị Nại và gọi là Qui
nhơn nhưng cũng chỉ nửa thế kỷ sau đã lại trở thành bình
địa vì chính sách tiêu thổ kháng chiến của người Việt
Nam theo Cộng sản. Qua bao nhiêu hưng phế của lịch sử, quá
khứ còn lại có lẽ vẫn là mấy ngôi tháp Chàm như một
niềm nhắc nhở một nỗi oán hờn nào đó.
Người di dân
Việt từ miền ngoài vào vùng đất Ðồ Bàn đã xây dựng
quê hương mình trên những chứng tích điêu tàn của một
vương quốc bị diệt vong. Có một điều là cái nỗi buồn
bị diệt vong này lại được nhiều người Việt đa cảm
ta thán thay cho họ. Những bản nhạc như Tiếng Dân Chàm, Hận
Ðồ Bàn là của người Việt làm ra và người Việt hát,
cũng như những vần thơ than khóc nước non Chàm cũng lại
là của những nhà thơ Việt. Không ai trong chúng ta xa lạ với
nhà thơ Chế Lan Viên và tập thơ Ðiêu Tàn của ông ta. Những
vần thơ ai oán như:
... Ðây, những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than
Ðây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui!
Ðây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn... (Trích bài Trên Ðường Về trong tập thơ Ðiêu Tàn)
Khi nghe những lời
thơ than vãn ai oán này, và nghe cái tên tác giả là họ Chế,
chúng ta tưởng chừng như đấy là một kẻ thuộc dòng dõi
của Chế Bồng Nga đang khóc cho dòng họ mình và dân tộc
mình, nhưng sự thật thì đó lại là một người dân Việt
chính tông, sống trên vùng đất của người Chiêm Thành cũ,
nhìn những di tích đổ nát và một quá khứ vàng son đã đi
qua mà than vãn cho một dân tộc bị chính dân tộc mình tiêu
diệt. Nhưng có lẽ từ trong tiềm thức, những vần thơ thương
cảm cho dân tộc Chàm này cũng đã phát xuất từ sự thương
cảm cho thân phận của chính dân tộc mình, kẻ chiến thắng
trên những đổ nát để rồi cũng đang đổ nát bằng bàn
tay của mình vì những tranh chấp quyền lợi riêng tư.
Thời khởi nghĩa
1945 Tỉnh Bình định có lần đã được đổi thành tỉnh
Tăng Bạt Hổ, tên một lãnh tụ Cần Vương chống Pháp của
tỉnh nhà nhưng tên này chưa được ghi vào sử đã trở về
với cái tên Bình định. Sau cuộc chiến tranh trường kỳ
Quốc Cộng, người Cộng sản sau khi chiếm được Miền Nam
cũng cho cải tổ nền hành chánh và tỉnh Bình định đã được
sát nhập với tỉnh Quảng ngãi để thành tỉnh Nghĩa Bình.
Cái tên Bình Ðịnh tưởng chừng phen này đi vào dĩ vãng nhưng
cái tinh thần địa phương và quyền lợi của phe nhóm đã
khiến cho sự kết hợp này cũng không được dài lâu để
cuối cùng lại tách đôi trở lại: Bình Ðịnh trở về với
Bình định và Quảng ngãi trở về với Quảng ngãi. Trong lòng
người cùng một nguồn gốc với nhau vẫn chưa bao giờ chấm
dứt ganh tị, chia rẽ, tị hiềm.
Cùng là con Rồng
cháu Tiên nhưng vì tranh sống, vì quyền lợi, người ta đã
không ngừng bôi mặt đá nhau và nhân danh những ý niệm mơ
hồ nào đó để rồi tự cho mình là "chính" hay gọi kẻ khác
là "ngụy" để mà hành tội nhau. Và trong cuộc chiến, hễ
vùng nào không phải trong tay mình "trị an" tức là vùng "loạn
lạc" nên cần phải được "bình định". Có lẽ may ra thời
Hùng Vương mới lập quốc con người chưa xâu xé nhau chứ
còn kể từ thời Bắc thuộc, người dân Việt vì muốn được
sống còn cũng đã phải học theo những thủ đoạn của người
Trung hoa cai trị mình để mà tranh sống. Khi đã giành lại
được quyền tự chủ rồi nhưng với một ngàn năm kinh nghiệm
đau thương dưới chế độ hà khắc của người Trung hoa,
cái tâm thức hận thù của kẻ nô lệ và ý chí muốn làm
chủ nhân ông để giành quyền sống đó vẫn tiếp tục ảnh
hưởng nếp suy nghĩ của những kẻ muốn vươn mình lên, cho
nên khi không có giặc ngoại xâm để chống thì lại chỉ
biết tranh giành quyền lợi riêng tư chứ chưa bao giờ thực
sự đoàn kết theo nghĩa hợp tác để xây dựng cho dân tộc
Việt Nam một cuộc sống phồn vinh hạnh phúc mà chỉ loanh
quanh luẩn quẩn với "loạn lạc" và "bình định".
Chính vì
thế mà khi nghĩ về hai tiếng "Bình định", tôi không phải
chỉ là cho đó như là một từ chỉ địa danh, một sự nhắc
nhở về một vùng đất nhiều tang thương trong quá trình lịch
sử, mà còn xem đó như là một dấu ấn cho nỗi buồn của
lịch sử dân tộc.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment