Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Saturday, February 23, 2013

Tình Hận Ngày Xanh [4] - LAMARTINE

Truyện dịch

CHƯƠNG IV

I

Tôi đã làm nhiều cuộc đi dạo dài qua thành phố, trên những bến cảng, ra các cánh đồng quê, nhưng những lần đi dạo một mình này không còn buồn tẻ như những ngày đầu tiên tôi trở về Naples. Tôi vui thích một mình, nhưng tôi cũng vui một cách thú vị quang cảnh của thành phố, bờ biển, bầu trời và sóng nước. Cảm giác cô đơn trong lúc này không đè nén tôi nữa, nó làm cho tôi quay về với chính mình và tập trung sức mạnh của tâm hồn và sự suy nghĩ của tôi. Tôi biết rằng những đôi mắt và những suy nghĩ thân tình đang theo tôi trong đám đông hoặc trong những nơi hoang vắng này, và khi trở về tôi sẽ được đón chờ bởi những tấm lòng luôn nghĩ đến tôi.  

Tôi không còn giống như một con chim kêu quanh những cái tổ lạ, theo như lời của bà mẹ già nói, mà tôi giống như con chim đang cố gắng tập bay những khoảng cách dài xa cái nhánh cây đã cưu mang nó, nhưng vẫn biết đường quay về lại chỗ cũ. Tất cả tình cảm của tôi đối với người bạn xa cách của tôi đã dồn vào cho Graziella. Mối tình cảm này còn sâu sắc hơn, ray rứt hơn, mềm yếu hơn so với những tình cảm ràng buộc tôi với anh bạn của tôi. Dường như tôi nợ một người là do thói quen và hoàn cảnh, nhưng người khác thì được nảy sinh ra từ bản thân mình, và tôi đã chiếm đoạt nó bằng chính sự lựa chọn của riêng tôi. 

Đó không phải là tình yêu, tôi không hề bị xáo động, cũng không ghen tị, và không say mê lo lắng; đó là một sự nghỉ ngơi thú vị của trái tim thay vì một cơn sốt dịu dàng của tâm hồn và giác quan. Tôi cũng không nghĩ đến yêu theo một cách khác, cũng không đòi phải được yêu nhiều hơn nữa. Tôi cũng không biết phải chăng cô ta là một người bạn thông thường, một người bạn thân, một người em gái hay là điều gì khác cho tôi, tôi chỉ biết rằng tôi đã hài lòng với cô ta và cô ta hạnh phúc với tôi. 

Tôi không ao ước gì hơn, hoặc khác hơn. Tôi không ở độ tuổi mà người ta tự phân tích mình về cái điều mình nghiệm thấy, để cho mình một định nghĩa hão huyền về hạnh phúc. Được thấy lòng bình tĩnh, gắn bó và hạnh phúc là đủ cho tôi, mà không cần biết là về cái gì hoặc tại sao. Cuộc sống chung, sự suy nghĩ đến cả hai, mỗi ngày siết chặt sự thân mật thơ ngây và dịu dàng giữa chúng tôi, cô ta cũng trong trắng trong sự tự nhiên như tôi bình thản trong sự vô tâm của tôi. 


II

Kể từ ba tháng nay tôi như người trong gia đình, sống chung dưới mái nhà, có thể nói tôi đã là một phần trong sự suy nghĩ của cô ta. Graziella đã quá quen coi tôi như không thể tách rời khỏi trái tim của mình, và cô ta có thể cũng không tự mình nhận thấy hết cái vị trí mà tôi đã chiếm trong tâm hồn cô ta. Với tôi, cô ta không hề có những nỗi sợ hãi, những sự dè dặt, những cái e thẹn thường xen vào trong các mối quan hệ giữa một cô gái trẻ và một người đàn ông trẻ thường làm nảy sinh trong tình yêu sự đề phòng, ngay cả khi người ta dùng nó để bảo vệ chính mình. Cô ta không hề nghi ngờ và cả tôi hầu như cũng không nghi ngờ rằng những vẻ duyên dáng trong trắng trẻ thơ của cô ta, giờ đây có thêm vài ánh mặt trời lại càng nở ra trong tất cả vẻ huy hoàng của tuổi sớm dậy thì, làm cho vẻ đẹp ngây thơ của cô ta trở thành một sức mạnh cho mình, một sự ngưỡng mộ đối với tất cả mọi người và một sự nguy hiểm cho tôi. Cô ta không hề để tâm che dấu nó hay tô điểm nó trước mắt tôi. 

Cô ta cũng không nghĩ gì khác hơn, như một người em gái không hề nghĩ nếu cô ta đẹp hay xấu dưới con mắt của người anh trai. Cô ta không cài thêm hoặc bớt đi một bông hoa vì tôi trong mái tóc của mình. Cô ta cũng thường không xỏ giày cho đôi chân trần của cô ta khi mặc quần áo cho các em nhỏ của mình dưới ánh nắng mặt trời trên sân thượng vào buổi sáng hay khi cô ta giúp bà nội quét lá khô rơi trong đêm trên sân thượng. Cô ta bước vào căn phòng luôn luôn mở cửa của tôi bất kỳ lúc nào, và ngồi trên ghế ở chân giường một cách ngây thơ cũng như Beppino. 

Vào những ngày mưa, tôi đã dành hàng tiếng đồng hồ một mình với cô ấy ở phòng bên cạnh nơi cô ta ngủ với mấy em nhỏ, và làm đồ san hô. Tôi giúp cô ta làm cái nghề mà cô ta chỉ dạy cho tôi trong khi trò chuyện và chơi đùa. Ít khéo léo hơn cô ta nhưng lại mạnh sức hơn, tôi đạt được nhiều kết quả hơn khi mài giũa các miếng san hô. Làm như vậy, chúng tôi đã tăng gấp đôi số sản phẩm, và có một ngày cô ta đã lãnh lương được gấp hai.

Trái lại, vào buổi tối, khi các em và gia đình đã đi ngủ, thì chính cô ta lại trở thành học trò và tôi là ông thầy. Tôi dạy cô ta đọc và viết bằng cách tập cho cô ta đánh vần các mẫu tự trong các cuốn sách của tôi và nắm tay cô ta để dạy cô ta vạch theo các chữ cái. Ông anh họ của cô ta không thể đến mỗi ngày, cho nên tôi là người thay thế anh ta. Cũng có thể là người thanh niên trẻ này dị hình và chân đi khập khiểng, cho nên dù có dịu dàng, kiên nhẫn và nghiêm trang trong cách xử sự vẫn không gợi được nơi cô em họ sự hấp dẫn và tôn trọng: hoặc là tự cô ta quá lơ đãng trong các bài học khiến cho cô ta ít đạt được tiến bộ với anh ta hơn là với tôi. Phân nửa buổi học tối thường trôi qua chỉ để đùa giỡn, để vui cười, để bắt chước nhại theo thầy. Anh chàng thanh niên trẻ đáng thương quá si mê cô học trò và quá nhút nhát trước mặt cô ta để có thể la rầy cô ta. Anh ta đã làm bất cứ điều gì cô ta muốn để cô gái trẻ không nhíu đôi lông mày đẹp của mình lại với vẻ hài hước, và đôi môi của cô ta không bỉu nhẹ ra với anh chàng. Thường thì thời gian dành cho đọc sách đã được anh ta dùng để gọt san hô, gỡ các sợi len rối trong lõi gỗ của các con sợi của bà nội, hoặc vá mấy mắt lưới đứt của Beppo. Tất cả mọi công việc đều tốt cho anh ta, miễn là lúc ra về anh ta được Graziella mỉm cười xã giao với anh ta và nói addio với anh ta bằng một giọng như nói: Hẹn gặp lại! 


III

Trái lại, khi học hành với tôi thì lại rất nghiêm chỉnh. Bài học thường kéo dài cho đến khi mắt của chúng tôi trĩu xuống vì buồn ngủ. Có thể nói là cô gái đáng thương đã làm hết sức mình để đạt kết quả: đầu cô ta nghiêng, cổ rướn lên, thái độ và diện mạo thì chăm chú bất động. Cô ta tựa khuỷu tay của cô ta trên vai tôi để đọc chỗ mà  tôi chỉ vạch bằng ngón tay dòng và chữ để phát âm trong cuốn sách. Khi cô ta viết, tôi cầm các ngón tay của cô ta trong bàn tay của mình để lèo lái phần nào cây bút của cô ta.  

Nếu cô ta làm sai, tôi trách mắng cô ta với một vẻ nghiêm khắc và tức giận, cô ta không trả lời mà chỉ giận với chính mình. Đôi khi thấy cô ta gần phát khóc, bấy giờ tôi đã phải dịu giọng và khuyến khích cô ta bắt đầu lại. Trái lại, nếu cô ta đã đọc và viết đúng, cô ta tự tìm phần thưởng cho mình trong tiếng vỗ tay của tôi. Cô ta quay về phía tôi mặt ửng đỏ và với nét vui mừng hãnh diện trên trán và trong đôi mắt của mình, tự phụ về sự hài lòng cô ta mang lại cho tôi nhiều hơn là chút chiến thắng về sự thành công của cô ta. 

Tôi thưởng cho cô ta bằng cách đọc một vài trang về Paul và Virginia, câu truyện mà cô ta ưa thích hơn tất cả, hay một vài vần thơ hay của Tasse, khi ông ta mô tả cuộc sống ngoài đồng nội của những người chăn chiên mà Herminie đã ở với họ, hoặc là khi ông ta ca tụng niềm than vãn hay nỗi tuyệt vọng của hai kẻ yêu nhau. Âm điệu của những câu thơ này làm cho cô ta vẫn còn khóc và mơ mộng sau khi tôi ngừng đọc một hồi lâu. Thi ca không bao giờ tìm được tiếng dội nào vang vọng hơn và lâu dài hơn là trái tim của tuổi trẻ khi tình yêu sắp nảy sinh. 

Nó cũng như điềm linh cảm của tất cả niềm đam mê. Sau đó, nó cũng giống như kỷ niệm và sự thương tiếc. Nó cũng làm cho con người khóc vào hai thời kỳ cùng tột của cuộc sống: tuổi trẻ, hy vọng, và tuổi già, hối tiếc. 


IV

Những sự thân mật đáng yêu của các buổi tối kéo dài và êm đềm dưới ánh sáng ngọn đèn và hơi ấm của lò than ô liu cháy hồng dưới chân chúng tôi, không bao giờ dẫn dắt chúng tôi đến những suy nghĩ nào khác hoặc những tình cảm mật thiết nào khác ngoài sự thân thiết của trẻ thơ. Chúng tôi đều giữ mình, tôi thì vô tâm  gần như lạnh nhạt, còn cô ta thì bởi sự ngây thơ và trong trắng của mình. Chúng tôi chia tay nhau cũng êm ả như khi chúng tôi họp mặt, và một lúc sau những cuộc chuyện trò lâu dài này, chúng tôi ngủ dưới một mái nhà, chỉ cách nhau vài bước, như hai đứa trẻ đã cùng nhau chơi đùa trong buổi tối và không mơ mộng gì ngoài những trò giải trí đơn giản của chúng. Sự bình thản của những cảm tình không tự biết và tự nuôi dưỡng này đã có thể kéo dài hàng năm, nếu không có một trường hợp xảy ra làm thay đổi tất cả mọi thứ, và bộc lộ ra cho chúng tôi thấy được cái bản chất của tình bạn mà chúng tôi vốn coi như là đầy đủ để được hạnh phúc như vậy. 



Cecco, tên của người anh họ của Graziella, vẫn tiếp tục càng ngày càng kiên trì đến nhà và trải qua các buổi tối mùa đông trong gia đình của người ngư phủ. Mặc dù cô gái không tỏ ra cho anh ta một dấu hiệu ưu ái nào, và thậm chí anh ta còn là đối tượng quen thuộc của các câu chuyện vui cười và gần như là một cái trò để trêu chọc cho cô em họ của mình, anh ta vẫn rất dịu dàng, rất kiên nhẫn, và rất khiêm nhường trước mặt cô gái, đến nỗi cô ta không thể không xúc động trước những sự ân cần của anh ta và đôi khi đã mỉm cười với anh ta với sự tử tế. 

Như thế cũng đã đủ cho anh ta. Anh ta thuộc mẫu người có tâm hồn yếu đuối, nhưng thương người, những người cảm thấy mình bị thua thiệt do bẩm sinh về những phẩm chất làm cho họ được yêu nên bằng lòng yêu mà không đòi hỏi được yêu trở lại và thường tự dâng mình như là nô lệ sẵn sàng với công việc, nếu không vì hạnh phúc, thì cũng vì người phụ nữ mà họ đã đem trái tim mình ra quy phục. Đây không phải là những đặc tính cao quý nhất, nhưng chúng lại là những bản tính cảm động nhất của sự quyến luyến. Người ta than phiền họ, nhưng người ta cũng ngưỡng mộ họ. Yêu để được yêu là con người, nhưng yêu chỉ để yêu thì gần như là thiên thần.


VI

Dưới những nét vô duyên nhất, vẫn có điều gì đó như thiên thần trong tình yêu của anh chàng Cecco đáng thương. Cũng vì vậy mà thay vì cảm thấy tủi thân hoặc ganh tị với những sự thân mật và ưu ái trước mắt từ Graziella mà tôi là đối tượng, anh ta lại mến tôi vì cô ấy yêu tôi. Trong tình cảm của cô em họ của mình, anh ta không đòi hỏi cho mình vị trí đầu tiên hoặc điểm duy nhất, mà hàng thứ hai hoặc hàng cuối cùng cũng đã đủ cho anh ta rồi.  

Biết đâu để làm vui lòng cô ta một phút, để có được một cái nhìn hài lòng, một cử chỉ, một lời niềm nở, anh ta cũng có thể đến tìm tôi ở tận cùng nước Pháp và mang tôi trở lại cho kẻ ưu ái tôi hơn là anh ta. Tôi cũng nghĩ rằng anh ta có thể ghét tôi nếu tôi làm cho cô em họ của anh ta đau khổ. 

Niềm kiêu hãnh của anh ta cũng như tình yêu của anh ta là nơi cô ta. Cũng có thể là cái vẻ lạnh lùng do nội tâm suy nghĩ, biết lý lẽ và có phương pháp mà Thiên Chúa và sự khuyết tật của anh ta đã tạo cho, lại là một tính toán do bản năng rằng cái ảnh hưởng của tôi trên các khuynh hướng của cô em họ của anh ta sẽ không vĩnh viễn mà chỉ cần một tình huống nào đó nhưng không thể nào tránh khỏi sẽ phân ly chúng tôi; rằng tôi chỉ là một người khách lạ từ một vùng đất xa xôi, với một hoàn cảnh và một gia thế rõ ràng là không tương hợp với hoàn cảnh người con gái của một ngư dân xứ Procida; một ngày nào đó sự mật thiết giữa cô em họ của anh ta và tôi sẽ đổ vỡ như nó đã được hình thành, lúc bấy giờ bị bỏ rơi, cô đơn tuyệt vọng, cô ta sẽ  chỉ còn một mình anh ta, và cho dù sự thất vọng có làm cho trái tim cô ta khô héo và chỉ cho anh ta một trái tim tan vỡ nhưng trọn vẹn. Vai trò của một kẻ an ủi và người bạn là điều duy nhất anh ta có thể mong. Nhưng cha anh ta thì đã có một suy nghĩ khác cho anh ta.


VII

Người cha, biết sự quyến luyến của Cecco với đứa cháu gái của mình nên thỉnh thoảng có đến xem. Xúc động trước vẻ đẹp, sự khôn ngoan của cô ta, thán phục về sự tiến bộ nhanh chóng trong việc làm nghề mỹ nghệ của ông ta, về khả năng đọc và viết, hơn nữa, ông ta suy nghĩ rằng những cái khiếm khuyết về bản chất sẽ không cho phép Cecco mơ ước những sự yêu đương nào khác hơn là sự yêu đương của tương hợp và của gia đình nên ông ta đã quyết định hỏi cô cháu gái làm vợ cho con trai mình. Tài sản do ông ta tạo ra cũng khá lớn so với một công nhân cho phép ông ta xem sự yêu cầu của mình như là một đặc ân mà Andrea, bà vợ và cô gái sẽ không nghĩ đến chuyện từ khước. Có thể là ông ta đã nói chuyện về cái dự tính của ông ta  cho Cecco, mà cũng có thể là ông ta còn giữ kín điều suy nghĩ của mình để dành cho anh ta một sự bất ngờ về hạnh phúc của anh ta. 


VIII

Đêm áp lễ Giáng sinh, tôi trở về nhà muộn hơn thường lệ để ngồi vào chỗ của tôi trong bữa ăn tối. Tôi nhận thấy có một vẻ lạnh lùng và bối rối trong nét mặt đầy ngượng ngập của Andrea và bà vợ của ông ta.
Ngước mắt lên nhìn Graziella, tôi thấy rằng cô ta đã khóc. Khuôn mặt cô ta thường quen với nét thanh thản và vui tươi khiến cho sự biểu lộ bất thường của nỗi buồn giống như một tấm màn thực tế che phủ. Có thể nói cái bóng đen của những suy nghĩ và của tâm hồn cô ta đã phủ lên nét mặt của cô ta. Tôi sững sờ nín lặng, không dám hỏi những người đáng thương này hoặc nói chuyện với Graziella, vì e sợ rằng chỉ một âm thanh tiếng nói của tôi cũng đủ làm vỡ tung trái tim mà dường như cô ta vừa mới đè nén được. Ngược lại thói quen thường ngày, cô ta không nhìn tôi. Cô ta đưa một bàn tay lơ là cầm những miếng bánh đưa lên miệng và làm như ăn để không lộ ra vẻ bối rối, nhưng cô ta không thể nào ăn nổi. Cô đã ném bánh mì xuống dưới bàn. Trước khi kết thúc bữa ăn im lặng, viện lý do đưa các em đi ngủ, cô ta đã kéo chúng theo vào phòng và đóng cửa ở luôn trong đó mà không hề nói lời chúc ngủ ngon với ông bà nội cô ta hoặc tôi và để chúng tôi ngồi lại một mình. 

Khi cô ta đã rời khỏi bàn, tôi hỏi hai ông bà già nguyên nhân gây ra sự nặng nề trong suy nghĩ của họ và nỗi buồn của cháu mình. Bấy giờ họ mới kể rằng cha của Cecco hôm nay có đến nhà và hỏi xin cho con trai của ông ta kết hôn với cháu gái của họ, rằng đó là một hạnh phúc to tát và một sản nghiệp lớn cho gia đình; rằng Cecco cũng có cái tốt, rằng Graziella, vốn rất tốt bụng, sẽ đem hai em nhỏ của mình theo và sẽ nuôi dạy chúng như là con mình: rằng tuổi già của chính họ cũng sẽ được bảo đảm khỏi cảnh đói nghèo; rằng họ đã đồng ý với lòng biết ơn về cuộc hôn nhân này; rằng họ đã nói chuyện với Graziella; rằng cô ta đã không trả lời do tính nhút nhát và khiêm tốn của con gái; rằng sự im lặng của cô ta và nước mắt của cô ta chỉ là ảnh hưởng của sự ngạc nhiên và cảm xúc của cô ta, nhưng rồi điều ấy cũng sẽ qua đi như con ruồi trên một bông hoa; và cuối cùng rằng giữa cha của Cecco và họ đã thỏa thuận sẽ cho làm đám cưới sau lễ Giáng sinh.


IX

Họ vẫn còn nói nhưng từ lâu tôi không còn nghe nữa. Tôi chưa bao giờ tự nhận xét mình về sự quyến luyến mà tôi đã có đối với Graziella. Tôi không biết tại sao tôi yêu cô ta; phải chăng đó là sự thân mật thuần túy, tình bạn, tình yêu, thói quen, hoặc do tất cả các tình cảm này hợp lại với nhau tạo thành khuynh hướng tình cảm của tôi dành cho cô ta. 

Nhưng ý tưởng đột nhiên thấy tất cả những mối quan hệ êm đềm của cuộc sống và tâm hồn đã được hình thành và như được củng cố mà không cần chúng tôi biết đến giữa cô ta và tôi thay đổi như vậy; ý tưởng người ta sắp tách rời cô ta ra khỏi tôi để bất ngờ trao qua cho một kẻ khác; rằng đang là một người bạn đồng hành, một người em gái của tôi như hiện nay, cô ta sẽ trở thành một kẻ xa lạ và thờ ơ; rằng cô ta sẽ không còn ở đó nữa, rằng tôi sắp không bao giờ nhìn thấy cô ta, rằng tôi sẽ không còn nghe tiếng cô ta gọi tôi nữa: rằng tôi sẽ không còn đọc trong đôi mắt của cô ta nhìn luôn hướng lên tôi cái tia sáng vuốt ve và sự dịu dàng làm rạng rỡ tâm hồn tôi và nhắc nhở tôi nhớ mẹ tôi và chị em của tôi; rằng sự trống rỗng và đêm thâu mà tôi tưởng tượng đột nhiên xuất hiện xung quanh tôi cái ngày sau hôm chồng cô ta đưa cô ta về một ngôi nhà khác; rằng căn phòng này, nơi cô ta sẽ không còn ngủ nữa; rằng căn phòng của tôi mà cô ta sẽ không còn bước vào; rằng cái bàn này nơi cô ta sẽ không ngồi nữa; rằng cái sân thượng này, nơi tôi sẽ không còn nghe tiếng bước chân trần hay giọng nói của cô ta vào buổi sáng khi tôi thức dậy; rằng những ngôi nhà thờ này mà tôi sẽ không còn đưa cô ta đi lễ vào những ngày Chủ nhật; rằng chiếc thuyền này, nơi cô ta ngồi sẽ bỏ trống và tôi chỉ còn nói chuyện với gió và sóng; rằng những hình ảnh ấp ủ của tất cả những thói quen nhẹ nhàng của cuộc sống trong quá khứ của chúng tôi, khơi dậy lại trong tâm tưởng đồng thời biến mất đột ngột như để tôi lại trong một vực thẳm của cô đơn và trống vắng; rằng tất cả điều này làm cho tôi cảm thấy lần đầu tiên sự liên hệ giữa cô gái này đối với tôi là như thế nào và chỉ cho tôi thấy cái tình cảm đã gắn bó tôi vào cô ta còn quá mạnh hơn tình yêu hay tình bạn và mạnh mẽ hơn là tôi đã nghĩ, và sự quyến rũ không biết từ đâu của nếp sống hoang sơ của tôi ở Naples, không phải là biển cũng không phải là chiếc thuyền, cũng không phải căn phòng khiêm tốn của ngôi nhà, cũng không phải người ngư phủ, hoặc bà vợ ông ta hoặc Beppo, hoặc mấy đứa nhỏ, mà chỉ là vì một người, và khi người này biến mất khỏi ngôi nhà, thì tất cả đồng thời cũng biến mất theo. Bớt cô ta trong cuộc sống hiện tại của tôi thì cũng không còn gì cả. Tôi cảm thấy điều đó: cái tình cảm cho đến nay vẫn còn mơ hồ và tôi chưa bao giờ thú nhận này đập vào tôi một đòn mạnh đến nỗi tất cả tâm hồn tôi rúng động, và tôi phải chịu đựng một cái gì đó của cái vô tận của tình yêu được thay thế bằng cái vô tận của nỗi buồn và tâm hồn tôi cảm thấy đột nhiên bị nhận chìm  trong đó. 


X

Tôi trở về phòng của tôi trong im lặng. Tôi để nguyên áo quần đang mặc ném mình lên giường.
Tôi cố gắng để đọc, viết, suy nghĩ, khuây khỏa bằng một số công việc làm cho tinh thần phải vất vả và có thể khống chế sự xáo động trong tâm hồn của tôi. Tất cả đều vô ích. Sự xáo động trong tâm quá mạnh mẽ đến nỗi tôi không thể có hai ý nghĩ và ngay cả sự rã rời của sức lực cũng không thể đưa tôi đến giấc ngủ. Chưa bao giờ bằng lúc ấy hình ảnh của Graziella lại lộng lẫy và dai dẳng đến như vậy trước mắt tôi.
Tôi vui thích cái hình ảnh đó như là một cái gì mà người ta nhìn thấy mỗi ngày, và người ta chỉ cảm nhận được sự dịu dàng của nó khi đã đánh mất nó. Ngay cả sắc đẹp của cô ta cũng chưa hề quan trọng đối với tôi cho đến ngày nay, tôi lẫn lộn cái ấn tượng mà tôi cảm thấy với hiệu quả của tình bạn mà tôi tỏ ra với cô ta và cái hình ảnh mà khuôn mặt của cô ta biểu lộ ra cho tôi. Tôi không biết trong sự quyến luyến của tôi có sự ngưỡng mộ như vậy không, tôi cũng không hề nghi ngờ có chút đam mê nào trong sự dịu dàng của cô ta hay không. Tôi đã không hiểu ra tất cả điều này, ngay cả trong những cái khúc mắc dài của tâm hồn tôi trong cơn mất ngủ đêm đó. Tất cả mọi thứ đều lẫn lộn trong nỗi đau đớn của tôi cũng như trong cảm giác của tôi. Tôi giống như một người đang sửng sốt bởi một cú đánh bất ngờ làm mình chưa biết mình bị đau ở đâu, nhưng chỗ nào cũng thấy đau cả. 

Tôi rời giường của mình trước khi trong nhà bắt đầu có tiếng động. Tôi không biết bản năng nào đã thúc đẩy tôi lánh xa nơi này một thời gian, như thể sự hiện diện của tôi chỉ gây rối rắm thêm những chuyện riêng tư của gia đình này mà số phận đang xáo động trước một người lạ. Tôi ra đi chỉ báo cho Beppo rằng cũng phải vài ngày nữa tôi mới quay trở lại. Tôi đi ngẫu nhiên theo hướng mà những bước chân đầu tiên của tôi đưa tôi đi. Tôi đi dọc theo các bến tàu dài của Naples, bờ biển của Resina, Portici, chân núi lửa Vésuve. Tôi thuê các hướng dẫn viên ở Torre del Greco; tôi ngủ trên một hòn đá tại cửa khu cô tịch San Salvatore, nơi giới hạn khu thiên nhiên có dân cư và bắt đầu khu vực hoạt động của núi lửa.
Vì thời gian gần đây núi lửa lại sôi sục và mỗi khi có chấn động lại ném những đám mây tro bụi và đá mà ban đêm chúng tôi có thể nghe lăn vào tận rãnh dung nham ở chân khu cô tịch, các hướng dẫn viên của tôi đã từ chối tháp tùng tôi đi xa hơn. Tôi leo núi một mình, tôi khó nhọc trèo lên chóp nón cuối, chân và tay tôi ngập trong một lớp bụi tro dày và nóng bỏng lún xuống dưới sức nặng của thân người. Từng lúc ngọn núi lửa lại gầm gừ và ran như sấm. Những cục đá bị nung hãy còn đỏ rơi rải rác đó đây xung quanh tôi và tắt lịm trong tro.

Không có gì ngăn nổi tôi dừng lại. Tôi leo lên tận rìa ngoài cùng của miệng núi lửa. Tôi ngồi xuống. Tôi thấy mặt trời mọc trên vịnh, trên cánh đồng và trên thành phố rực rỡ của Naples. Tôi cảm thấy mình trơ trơ và lạnh lùng với cái quang cảnh mà biết bao du khách phải vượt hàng ngàn dặm để đến xem. Trong cái cảnh bao la của ánh sáng, biển, bờ biển và các tòa nhà được mặt trời chiếu vào, tôi chỉ tìm kiếm một chấm nhỏ màu trắng ở giữa màu xanh sậm của cây cối ở cuối ngọn đồi Pausilippe nơi mà tôi nghĩ tôi có thể phân biệt ra ngôi nhà tranh của Andrea. Con người đã cố nhìn ngắm và ôm đồm hết không gian, nhưng tất cả thiên nhiên chỉ tạo ra cho nó hai hoặc ba điểm nhạy cảm mà tất cả tâm hồn nó quy vào. Loại ra khỏi cuộc đời trái tim yêu thương bạn thì còn gì nữa đâu? Thiên nhiên cũng giống như vậy. Xoá bỏ khung cảnh và ngôi nhà mà ý nghĩ của bạn đang tìm kiếm hoặc những kỷ niệm mà bạn để cho sinh sôi nảy nở thì chỉ còn là một khoảng không chói lòa, nơi cái nhìn đăm đăm không tìm thấy đáy hoặc chỗ nghỉ ngơi. Sau điều đó thì có gì phải ngạc nhiên khi những cảnh tuyệt vời nhất của tạo hóa chỉ được nhìn bằng một con mắt rất khác xa với những du khách? Đó là vì mỗi người đều mang cái quan điểm của mình. Một đám mây trên tâm hồn che phủ và làm mờ nhạt trái đất còn hơn cả một đám mây trên đường chân trời. Quang cảnh thế nào là do nơi lòng kẻ chiêm ngắm. Tôi nhận thấy điều đó.


XI

Tôi nhìn khắp nơi, tôi không thấy gì cả. Tôi đã uổng công đi xuống miệng hố núi lửa này giống như một kẻ rồ dại, bằng cách nắm giữ những chỏm đá dung nham nguội. Tôi đã uổng công vượt qua những kẽ nứt sâu nơi khói và những ngọn lửa bò lan làm tôi nghẹt thở và sém đốt tôi. Tôi đã uổng công nhìn các cánh đồng lớn của lưu huỳnh, muối khoáng kết tinh giống như những băng hà đượm màu hơi thở của lửa. Tôi vẫn lạnh nhạt với sự chiêm ngưỡng cũng như với sự hiểm nguy. Tâm trí của tôi đã ở nơi khác, tôi đã uổng công muốn gọi nó quay trở lại.
Chiều hôm đó tôi trở về lại khu cô tịch. Tôi cho các hướng dẫn viên của tôi về; tôi đi trở về qua những vườn nho của Pompeii. Tôi đã dành trọn một ngày dạo lang thang khắp các đường phố vắng vẻ của cái thành phố bị chôn vùi. Ngôi mộ này, được khai quật sau hai nghìn năm và đang phơi bày ra dưới ánh mặt trời những đường phố, đền đài di tích nghệ thuật của nó cũng chỉ làm cho tôi vô cảm như ngọn núi lửa Vésuve. Linh hồn của tất cả đám tro bụi này đã bị gió của Thiên Chúa quét đi từ bao nhiêu thế kỷ nên cũng chẳng còn gì để nói với tôi trong tâm hồn. Tôi dẫm chân lên lớp bụi người trong các đường phố đã một lần là thành phố của họ với sự thờ ơ không kém gì khi dẫm lên những đống vỏ ốc rỗng bị sóng đánh giạt vào bờ trên các bờ biển. Thời gian là một biển lớn làm tràn bờ những mảnh vỡ tâm hồn của chúng ta như biển cả. Người ta không thể khóc trên tất cả mọi chuyện. Mỗi người có những nỗi đau của mình, mỗi thế kỷ có nỗi xót xa riêng của nó; thế là đủ.

Rời Pompeii, tôi đi sâu vào các truông đầy cây cối thuộc dãy núi của vùng Castellammare và vùng Sorrente. Tôi sống ở đây vài ngày, đi từ làng này sang làng khác, và nhờ các người chăn dê hướng dẫn tôi đến các cảnh trí nổi tiếng nhất trong các dãy núi của họ. Họ tưởng tôi là một họa sĩ đi nghiên cứu điểm ngắm, bởi vì thỉnh thoảng tôi lại ghi chú vài hàng trong một cuốn sách vẽ nhỏ mà bạn tôi đã để lại cho tôi. Tôi chỉ còn là một linh hồn lang thang đi thơ thẩn đây đó trong cánh đồng để tiêu mòn cho hết ngày giờ của mình. Tôi đã mất tất cả. Tôi mất cả bản thân mình.

Tôi không thể tiếp tục lâu hơn nữa. Khi những ngày lễ Giáng sinh đã qua, và luôn cả ngày đầu tiên của năm mới mà con người đã làm thành một ngày lễ như để mua chuộc và xoa dịu thời gian với những cuộc vui mừng và những sự vinh danh, giống như người ta muốn làm cho một ông chủ nghiêm khắc thành hiền hòa, tôi vội vã trở về Naples.

Tôi về đến đây lúc đã đêm trong sự do dự, nửa nóng lòng muốn gặp lại Graziella, nửa sợ hãi biết được tôi không bao giờ còn nhìn thấy cô ta nữa. Tôi dừng lại vài mươi lần, ngồi lại trên cạnh lườn của các con thuyền trong khi càng đến gần Margellina.
Còn cách nhà một vài bước tôi gặp Beppo. Cậu bé thốt lên một tiếng kêu vui mừng khi nhìn thấy tôi và ôm chầm lấy cổ tôi như một người em nhỏ. Nó đưa tôi đến chỗ con thuyền của nó và kể cho tôi những gì đã xảy ra trong thời gian tôi vắng mặt.

Tất cả mọi thứ đã thay đổi rất nhiều trong nhà. Graziella chỉ biết khóc kể từ khi tôi đi. Cô ta không còn ngồi vào bàn ăn trong các bữa ăn. Cô ta không còn làm đồ san hô nữa. Suốt ngày này sang ngày khác cô ta nhốt mình trong phòng, không buồn trả lời khi có nguời gọi, và đêm nào cũng đi dạo trên sân thượng. Láng giềng chung quanh bảo cô ta phát điên hoặc cô ta bị thất tình. 

Tuy nhiên, nó cũng biết rằng điều này không đúng sự thật.

Tất cả những rắc rối là do người ta muốn chị ấy kết hôn với Cecco và chị ấy không muốn, cậu bé nói. Beppino đã nhìn thấy tất cả và nghe tất cả. Hằng ngày cha của Cecco đến nhà mong có được câu trả lời của ông nội và bà nội. Hai ông bà không ngừng khuyên răn Graziella vì mong muốn cuối cùng chị ấy sẽ đồng ý. Chị ấy không muốn nghe nói về việc này và nói thà trốn qua Genève còn hơn. Đối với người công giáo xứ Naples thì đó là một sự phát biểu tương tự như câu: "Tôi thà bỏ đạo." Đó là một sự đe dọa còn tệ hơn sự đe dọa tự tử: đó là sự tự tử đời đời của linh hồn. Andrea và bà vợ ông ta, vốn rất qúy mến Graziella, cùng một lúc đã thất vọng về sự cự  tuyệt của cô ta và mất luôn niềm hy vọng của mình mà họ đã đặt nơi cô ta. Họ đem mái tóc bạc của họ ra để nói với cô ta về tuổi già của họ, về những nỗi cơ cực của họ, về tương lai của hai đứa em nhỏ. 

Bấy giờ Graziella mới xiêu lòng. Cô ta tiếp anh chàng Cecco đáng thương tử tế hơn một chút, anh chàng này vẫn thỉnh thoảng đến nhà vào buổi tối để ngồi khiêm nhường ở cửa phòng cô em họ của mình và chơi với các em nhỏ. Anh ta chào hỏi khi đến và nói lời chia tay qua cửa, nhưng không mấy khi được cô ta  trả lời một tiếng. Anh ta ra về không mấy hài lòng nhưng nhẫn nhịn, và ngày hôm sau trở lại luôn luôn giống như cũ.
"Chị tôi đã sai lầm, Beppino nói. Cecco yêu chị ấy biết bao và anh ta lại tử tế nữa! Chị ta sẽ rất hạnh phúc! Cuối cùng thì hồi tối hôm nay, chị ấy cũng đã xiêu lòng bởi những lời van xin của ông bà nội và những giọt nước mắt của Cecco. Chị ấy đã mở hé cửa, chìa tay cho anh ta, và anh ta đã luồn một chiếc nhẫn vào ngón tay của chị ấy, và chị ấy đã hứa là sẽ chịu để cho làm đám hỏi vào ngày mai. Nhưng ai mà biết được ngày mai chị ấy lại không giở một trò ngông cuồng mới? Chị ấy đã từng dịu hiền và vui vẻ biết bao! Lạy Chúa! chị ấy đã thay đổi! Anh sẽ không còn nhận ra chị ấy đâu!..." 


XII  

Beppino ngủ lại trong thuyền. Nhờ có cậu bé cho biết những gì đã xảy ra, tôi bước vào nhà.

Chỉ có Andrea và vợ của ông ta trên sân thượng. Họ thân thiện gặp lại tôi  và tuôn hàng tràng trách móc tôi đã vắng nhà quá lâu một cách nhẹ nhàng. Họ kể cho tôi nghe những nỗi khổ của họ và những hy vọng của họ liên quan đến Graziella. "Nếu cậu đã có mặt, ông già Andrea nói, cậu là  người con bé rất quý mến và là người mà con bé không bao giờ nói không, có lẽ cậu đã giúp được cho chúng tôi rất nhiều. Được gặp lại cậu chúng tôi vui biết bao! Ngày mai, sẽ là ngày làm đám hỏi, cậu phải có mặt; sự hiện diện của cậu luôn luôn mang lại cho chúng tôi hạnh phúc." Tôi cảm thấy một sự rùng mình lan khắp cơ thể khi nghe những lời nói của những kẻ đáng thương này. Có một cái gì đó nói với tôi rằng sự bất hạnh của họ là do tôi gây ra. Tôi nôn nóng và tôi cũng run sợ gặp lại Graziella. Tôi làm bộ nói lớn tiếng với ông bà cô ta, và đi qua đi lại trước cửa phòng của cô ta như thể một người không muốn lên tiếng gọi nhưng lại muốn người khác nghe thấy. Cô ta vẫn làm như điếc, câm, và không xuất hiện. Tôi đi vào phòng của tôi và lên giường nằm. Một chút yên tĩnh nào đó luôn luôn tạo ra trong những tâm hồn bị xáo động một sự ngưng nghi ngờ, và sự chắc chắn bất cứ là cái gì, ngay cả sự đau khổ, cuối cùng đã xâm chiếm tâm trí tôi. Tôi buông mình trên giường giống như một khối nặng không còn sinh khí và không cử động. Những mệt mỏi của trí óc và tứ chi đã nhanh chóng ném tôi vào trong những giấc mơ lẫn lộn, sau đó trong sự rã rời của giấc ngủ. 
 

XIII

Tôi thức giấc hai ba lần trong đêm.
Đó là một trong những đêm mùa đông rất hiếm hoi, nhưng lại thê thảm hơn, ở vùng khí hậu ấm và gần bờ biển. Những làn chớp liên tục loé qua các khe hở của cửa sổ, giống như những cái nhấp nháy của một con mắt lửa trên các bức tường của phòng tôi. Gió gào hú như những đàn chó đói. Những cú đập inh tai của một vùng biển động trên cát sỏi của bãi biển Margellina vang dội khắp bờ như thể người ta thảy lên đó những khối đá.

Cửa phòng của tôi rung lên và va đập theo cơn gió. Tôi thấy dường như nó đã tự mở ra hai hoặc ba lần, tự đóng lại và tôi nghe như có tiếng khóc nghẹn ngào và tiếng nức nở của người trong tiếng rít và tiếng than vãn của giông bão. Có một lần tôi còn tưởng như mình nghe âm vang những lời nói và tiếng gọi tên tôi với một giọng của kẻ gặp nạn đang kêu cứu! Tôi nhổm dậy trên giường; tôi không nghe gì nữa: tôi nghĩ rằng đó là cơn bão, cơn sốt và mộng mị lôi cuốn tôi vào những ảo tưởng; tôi lại rơi vào một giấc ngủ chập chờn.
Sáng hôm sau cơn bão đã nhường chỗ cho ánh mặt trời trong hơn. Tôi bị đánh thức bởi những tiếng rên rỉ thực sự và những tiếng kêu thất vọng của người ngư phủ nghèo và bà vợ ông ta đang than vãn trước ngưỡng cửa phòng của Graziella. Cô bé đáng thương đã bỏ trốn trong đêm. Cô ta đã dậy và ôm hôn các em trong khi làm hiệu cho chúng giữ im lặng. Cô ta đã để lại trên giường của cô ta tất cả các quần áo tốt nhất, đôi hoa tai của cô ta, các vòng dây chuyền, số tiền nhỏ nhoi mà cô ta đã kiếm được.

Ông già giữ trong tay một mảnh giấy bị hoen vài giọt nước được tìm thấy ghim trên giường bằng một chiếc kẹp. Có chừng năm sáu dòng chữ và ông già cuống cuồng năn nỉ tôi đọc giùm. Tôi cầm lấy mảnh giấy. Nó chỉ gồm mấy lời này được viết đang khi run rẩy trong cơn sốt, và tôi phải khó khăn lắm mới có thể đọc: "Con đã hứa quá nhiều ... một tiếng nói bảo với con rằng điều đó mạnh hơn con... Con hôn chân các người, hãy tha thứ cho con. Con thích làm một nữ tu hơn. Hãy an ủi Cecco và ông... Con sẽ cầu xin Chúa cho anh ta và cho các em. Hãy cho chúng tất cả mọi thứ con có. Hãy trả chiếc nhẫn này cho Cecco ... "
Nghe đọc xong những dòng này, tất cả nhà lại oà lên khóc một lần nữa. Mấy đứa nhỏ, vẫn đang còn trần truồng, nghe nói chị chúng đã ra đi mãi mãi, cũng hòa tiếng của chúng theo những tiếng rên rỉ của hai ông bà già và vừa chạy quanh khắp nhà vừa gọi Graziella!


XIV

Mảnh giấy rơi khỏi tay của tôi. Trong khi định nhặt nó lên tôi thấy trên mặt đất dưới cửa phòng của tôi một bông lựu mà Chủ Nhật cuối cùng tôi đã ngắm nhìn trong mái tóc của cô gái và chiếc tượng ảnh mà cô ta sùng kính luôn luôn đeo trong ngực và vài tháng trước đây cô ta đã  từng gắn nó lên tấm màn của tôi trong khi tôi bị bệnh. Tôi không còn nghi ngờ là cánh cửa của phòng tôi đã tự mở ra và đóng lại trong đêm nữa; và những lời nói cũng như những tiếng nức nở nghẹn ngào mà tôi nghĩ mình đã nghe và đã cho là tiếng than khóc của gió nữa mà chính là lời từ biệt và những tiếng khóc thổn thức của cô bé đáng thương. Một khoảnh khô ráo trên ngưỡng cửa bên ngoài lối vào phòng tôi, giữa những vệt mưa làm ướt hết phần còn lại của sân thượng, chứng tỏ rằng cô bé đã ngồi ở đó trong cơn bão, cô ta đã dùng mấy giờ cuối cùng của mình để tự than van và khóc lóc trong khi nằm hoặc quỳ trên miếng đá này. Tôi lượm cái bông lựu và chiếc tượng ảnh lên và giấu vào trong ngực mình.

Tội nghiệp cho những người đang ở giữa cơn tuyệt vọng này lại xúc động nhìn thấy tôi cũng khóc như họ. Tôi cố làm những gì tôi có thể để an ủi họ. Tất cả đồng ý rằng nếu tìm lại được cô cháu gái của họ, sẽ không ai nói về chuyện Cecco với cô ta nữa. Chính Cecco mà Beppo đã đi gọi đến nhà, là người đầu tiên tự nguyện hy sinh để trả lại sự yên ổn cho gia đình và sự quay trở về nhà của cô em họ. Dù đã tuyệt vọng, người ta thấy anh ta vẫn còn sung sướng thấy tên của mình được nhắc đến với vẻ dịu dàng trong mảnh giấy, và anh ta đã tìm thấy được chút an ủi ngay trong sự chia tay đã làm nên sự tuyệt vọng cho mình.
"Dù sao thì cô ấy cũng có nghĩ đến tôi," anh ta nói, và anh ta chùi đôi mắt của mình. Ngay lập tức chúng tôi đồng ý rằng sẽ không có ai giữa chúng tôi ngưng tìm kiếm giây phút nào cho đến khi tìm thấy dấu vết của kẻ bỏ trốn.

Ông già và Cecco vội vàng ra đi để thăm dò tin tức trong vô số nữ tu viện của thành phố.
Beppo và bà nội chạy đến nhà tất cả các bạn trẻ của Graziella mà họ nghi là có biết được một vài điều tâm sự và sự bỏ trốn của cô bé. Tôi chỉ là một người khách, tôi tự lãnh trách nhiệm tới thăm các bến tàu, bến cảng của Naples và các dinh cơ của thành phố để hỏi thăm những người gác cửa, các thuyền trưởng của các con tàu, các thủy thủ để xem có ai trong số họ đã nhìn thấy một cô gái Procitane trẻ lên tàu rời khỏi thành phố hồi sáng hôm nay không. Trọn buổi sáng đã qua đi trong các cuộc tìm kiếm không kết quả. Tất cả chúng tôi đều im lìm và buồn thảm trở về nhà để kể lại cho nhau biết kết quả tìm kiếm của mình và hỏi ý kiến nhau một lần nữa. Không ai, ngoại trừ mấy đứa bé, có đủ sức để đưa một mẩu bánh mì vào miệng. Andrea và bà vợ ngồi rũ rượi ngay ngưỡng cửa phòng Graziella. Beppino và Cecco trở lại lang thang một cách vô vọng các đường phố và trong các nhà thờ được mở cửa trở lại vào buổi chiều tại Naples cho buổi đọc kinh tối và chầu phép lành. 


XV

Tôi đi ra ngoài một mình sau khi họ đã đi và tôi đã buồn bã và ngẫu nhiên chọn con đường dẫn đến đường hầm Pausilippe. Tôi vượt qua đường hầm, đi đến tận bờ rìa của vùng biển có hòn đảo nhỏ Nisida.
Từ bờ biển mắt tôi hướng về Procida mà người ta nhìn thấy trắng xóa như là một cái mu rùa trên sóng biển màu xanh lam ở đó. Trí tôi tự nhiên quay về trên hòn đảo này và về những ngày vui cũ mà tôi đã trải qua nơi đây với Graziella. Một ý nghĩ chợt nảy ra cho tôi. Tôi nhớ ra cô gái có một người bạn khoảng tuổi cô ta, con gái của một người nghèo sống trong các khu nhà tranh lân cận, và cô gái này mang một kiểu trang phục đặc biệt không giống như các bạn khác. Một hôm tôi có hỏi cô ta về những lý do có sự khác biệt trong trang phục của cô ấy, cô ta đã nói rằng cô ấy là một nữ tu, mặc dù cô ấy vẫn được tự do sống tại nhà cha mẹ của mình trong một hình thức trung gian giữa tu hành và đời sống gia đình. Cô ta có chỉ cho tôi thấy ngôi nhà thờ của tu viện. 

Có nhiều người tu như vậy ở đảo, cũng như ở Ischia và trong các làng quê của Naples. Tôi nảy ra cái ý tưởng là Graziella nếu muốn dâng mình cho Chúa, có thể đã đến ngỏ ý cho người bạn này và cầu xin cô ấy mở cửa tu viện cho cô gái. Tôi không còn dành thời gian để suy nghĩ nữa và tôi đã rảo bước dọc theo con đường đi về Pozzuoles, thị trấn gần nhất với Procida, nơi đó người ta có thể tìm được tàu thuyền. 

Tôi đến Pozzuoles trong vòng chưa đầy một giờ. Tôi chạy ra bến. Tôi trả gấp đôi tiền cho hai tay chèo để họ chịu đưa tôi đến Procida mặc dù biển đang động và đêm đã xuống. 

Họ đưa thuyền xuống nước. Tôi cũng nắm lấy một cặp chèo với họ. Chúng tôi vượt qua mũi  Misène một cách khó khăn. Hai tiếng đồng hồ sau tôi đã lên được đảo và hoàn toàn một mình, thở hổn hển và run rẩy giữa bóng tối và những ngọn gió mùa đông, tôi leo lên những bậc cấp của con đường dốc dài dẫn đến căn lều của Andrea. 


XVI

"Nếu Graziella có mặt ở đảo, tôi tự bảo mình, thì cô ta sẽ đến đó trước tiên giống như bản năng tự nhiên khiến con chim tìm về tổ của mình, và đứa con tìm về nhà của cha mình. Nếu cô ta không còn ở đó nữa, vẫn còn lại một vài dấu vết cho tôi biết cô ta đã có ghé lại đây. Những dấu vết này có thể dẫn tôi tìm ra nơi cô ta ở hiện nay. Nếu tôi không tìm thấy cô ta hay dấu vết nào về cô ta ở tại đây thì coi như xong: những cánh cửa của một ngôi mộ sống nào đó sẽ không bao giờ đóng lại trên tuổi thanh xuân của cô ta." Còn đang bị dày vò về nỗi nghi ngờ khủng khiếp này thì tôi cũng vừa đến bậc cấp cuối cùng. Tôi biết kẽ đá nào là chỗ mà bà mẹ già trước khi ra đi đã giấu chiếc chìa khóa nhà. Tôi vạch mớ giây trường xuân và thò tay vào.  Mấy ngón tay của tôi co quắp mò mẫm tìm kiếm chiếc chìa khóa vì sợ gặp cái cảm giác lạnh khi đụng vào thép sẽ làm cho tôi hết hy vọng...

Chìa khóa không có ở đó. Tôi thốt ra một tiếng kêu nghẹn ngào vì vui mừng và đi vào trong sân không gây một tiếng động. Cửa ra vào, các cửa sổ đều đóng; một tia sáng yếu ớt lọt qua các khe hở của cửa sổ và chập chờn trên lá của cây sung cho biết có một ngọn đèn đã được thắp lên trong nhà. Ai có thể tìm thấy chìa khóa nhà, mở cửa, thắp đèn, nếu không phải là đứa con trong nhà? Tôi không còn nghi ngờ gì nữa là Graziella chỉ cách tôi vài bước, và tôi qùy gối xuống ngay trên bậc cấp cuối của cầu thang để cảm ơn thiên thần đã hướng dẫn cho tôi đến tận chỗ cô ta. 

Không có tiếng động nào phát ra từ trong nhà. Tôi áp sát tai vào ngưỡng cửa, tôi nghe như có tiếng động yếu ớt của hơi thở và hình như tiếng những thổn thức ở tận cuối căn phòng thứ hai. Tôi lắc nhẹ cánh cửa như thể gió làm cho cửa lung lay trên bản lề, cốt để khơi gợi dần dần sự chú ý của Graziella vì nghĩ rằng một tiếng động bất ngờ và không chờ đợi, một giọng nói của người có thể làm cho cô ta chết giấc.
Tiếng hơi thở dừng lại. Bấy giờ tôi mới gọi Graziella thật khe khẽ và bằng một giọng bình tĩnh và dịu dàng nhất mà tôi có thể tìm thấy được trong trái tim của mình. Một tiếng kêu yếu ớt từ cuối căn nhà đáp lại tôi. Tôi gọi lại lần nữa và van xin cô ta hãy mở cửa cho người bạn của cô ta, anh của cô ta, đang đêm đã một mình vượt qua cơn bão và được thiên thần lành hướng dẫn đến đây để tìm cô ta, phát giác ra cô ta, cứu cô ta ra khỏi cơn thất vọng của mình và mang lại cho cô ta sự tha thứ của gia đình, của mình, và đưa cô ta về lại với bổn phận của mình, hạnh phúc của mình, về lại với bà nội đáng thương và các em nhỏ thân yêu của mình!
"Lạy Chúa! đúng là anh ấy! đúng là tên tôi! đúng là tiếng nói của anh ấy!" cô ta nghẹn ngào kêu lên.
Tôi gọi một cách dịu dàng hơn nữa Graziellina, cái tên mơn trớn mà đôi khi tôi đã gọi khi chúng tôi đùa bỡn cùng nhau. 

"Ồ! đó là anh ta, cô ta nói. Tôi không lầm, lạy Chúa tôi! đó là anh ta!" Tôi nghe tiếng cô ta nhổm mình dậy trên lớp lá khô xào xạc theo mỗi cử động của cô ta, bước một bước để đến mở cửa cho tôi và sau đó thì ngã xuống lại do yếu sức hoặc do xúc động và không thể đi xa hơn được nữa.


XVIII

Tôi không còn do dự nữa; tôi dùng vai hích mạnh một cái bằng tất cả sức lực của sự nôn nóng và lo lắng của tôi vào cánh cửa đã cũ, ổ khóa đã nhường bước và sút ra do nỗ lực của tôi, và tôi vội vã nhào vào trong nhà. 

Ngọn đèn nhỏ do Graziella thắp lên trước tượng Đức Mẹ tỏa một làn ánh sáng yếu ớt. Tôi chạy đến cuối căn phòng thứ hai nơi tôi nghe có giọng nói của cô ta và tiếng cô ta ngã, và tôi nghĩ là cô ta đang bất tỉnh. Cô ta không sao. Chỉ vì yếu sức đã làm cho cô ta không gượng nổi và cô ta đã ngã xuống lại trên đống cây thạch thảo khô được dùng làm giường ngủ cho mình, hai tay chắp vào nhau trong khi nhìn tôi. Đôi mắt cô ta bị cơn sốt làm cho nhấp nháy, mở ra vì ngạc nhiên và mệt mỏi vì tình yêu sáng yên một chỗ như hai ngôi sao mà ánh sáng từ bầu trời rơi xuống, và có vẻ như đang nhìn.
Cô ta cố ngẩng đầu lên nhưng vì quá yếu nên đầu cô ta lại ngã xuống trên đám lá, và ngửa ra sau như thể cổ bị gãy. Mặt cô ta tái mét như người sắp chết, ngoại trừ trên hai gò má còn nhuốm một chút màu hồng tươi. Làn da đẹp của cô ta có lằn của nước mắt và bụi bám vào. Bộ quần áo đen của cô ta lẫn lộn với màu nâu của đám lá rải rác trên mặt đất mà cô ta nằm trên đó. Bàn chân trần của cô ta, trắng như cẩm thạch, soãi dài ra khỏi đống dương xỉ và dựa trên đá. Những cái rùng mình ớn lạnh chạy trên khắp châu thân và làm cho răng va vào nhau lách cách như cái lục lạc trong tay một đứa bé. Cái khăn tay màu đỏ thường bao phủ các bím tóc đen dài của mái tóc đẹp của cô ta đã được gỡ ra và trải rộng như một tấm màn lửng che trên trán đến cạnh mi mắt. Người  ta thấy là cô ta đã dùng nó để giấu mặt và nước mắt của mình trong bóng tối như trong sự bất động dự liệu của một tấm vải liệm, và cô ta chỉ nhấc nó lên khi nghe tiếng của tôi và sửa soạn ngồi dậy để đi ra mở cửa cho tôi.


XIX

Tôi quỳ xuống bên cạnh đống cây dương xỉ, cầm lấy hai bàn tay giá lạnh của cô ta trong tay tôi nâng lên đôi môi của tôi để sưởi ấm chúng bằng hơi thở của tôi và vài giọt nước mắt từ đôi mắt của tôi đã rơi xuống trên bàn tay cô ta. Tôi nhận ra nơi ngón tay co quắp siết lại của cô ta là cô ta đã cảm nhận thấy cơn mưa của trái tim và cô ta cảm ơn tôi về điều đó. Tôi cởi chiếc áo khoác thủy thủ của tôi và thảy nó trên đôi chân trần của cô ta. Tôi trùm đôi chân cô ta trong những nếp gấp của len.
Cô ta để yên cho tôi làm, chỉ theo dõi bằng đôi mắt biểu lộ sự mê sảng vui sướng, nhưng không thể có cử chỉ nào để tự giúp mình, giống như một đứa trẻ để yên cho người ta quấn tã và đặt vào nôi. Sau đó, tôi ném vài ba bó thạch thảo vào lò sưởi của căn phòng ngoài để sưởi ấm không khí lên một chút. Tôi dùng ngọn lửa của cây đèn nhóm cho củi cháy lên và tôi trở lại ngồi trên sàn nhà bên cạnh chiếc giường bằng lá khô.

"Tôi cảm thấy dễ chịu quá!" Cô ta nói với tôi bằng một giọng thì thầm, một giọng nói nhẹ nhàng, đều đều và đơn điệu, như thể lồng ngực cô ta đã mất hết rung động lẫn âm giọng và chỉ còn lại duy nhất một âm điệu trong giọng nói của mình. "Tôi đã cố gắng một cách vô ích để tự giấu mình điều ấy, tôi đã cố gắng một cách vô ích để luôn luôn giấu anh điều ấy, vâng giấu anh. Tôi có thể chết nhưng tôi không thể yêu ai khác ngoài anh. Họ muốn tôi có một người chồng, chính anh mới là người chồng trong tâm hồn của tôi! Tôi không muốn dâng mình cho một kẻ nào khác trên đời này, bởi vì tôi đã âm thầm dâng tôi cho anh! Hoặc có anh trên trái đất này, hoặc là có Chúa ở trên trời! đó là ước nguyện mà tôi đã làm trong ngày đầu tiên tôi nhận ra rằng trái tim của tôi đã tương tư anh. Tôi biết tôi là một cô gái nghèo không xứng đáng đụng tới dù chỉ là bàn chân của anh bằng ý nghĩ của mình. Vì vậy, tôi đã không bao giờ đòi hỏi anh yêu tôi. Tôi cũng sẽ không bao giờ hỏi anh xem anh có yêu tôi không. Nhưng với tôi, tôi yêu anh, tôi yêu anh!" Và cô ta dường như đã tập trung tất cả tâm hồn của mình trong ba chữ này. "Và bây giờ, hãy khinh bỉ tôi, hãy chế giễu tôi, hãy chà đạp tôi dưới chân đi! ListenHãy cười nhạo tôi nếu anh muốn, giống như một con điên rách rưới mà cứ ngỡ như mình là một nữ hoàng. Hãy đem tôi ra làm trò cười cho tất cả mọi người đi! Vâng, chính tôi sẽ nói với họ: "Vâng, tôi yêu anh ấy! và nếu các bạn ở vào địa vị của tôi, các bạn cũng sẽ làm như tôi thôi, hoặc là chết hoặc là được yêu người ấy!" 


XX

Tôi đưa mắt nhìn xuống, không dám nhìn lên cô ta, vì e rằng cái nhìn của tôi sẽ nói lên cho cô ta quá nhiều hoặc quá ít trong cơn mê sảng như vậy. Tuy nhiên tôi đã ngước mắt lên khi nghe mấy tiếng này, trán tôi áp vào tay cô ta, và tôi lắp bắp một vài lời.

Cô ta đặt ngón tay của mình trên môi tôi. "Hãy để tôi nói: bây giờ tôi đang hạnh phúc, tôi không còn nghi ngờ gì nữa, Chúa đã làm sáng tỏ. Hãy nghe đây:
"Hôm qua khi tôi trốn ra khỏi nhà sau khi đã trải qua cả đêm vật vã và khóc lóc tại cửa phòng của anh; và khi đến đây trong cơn bão, tôi đã nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ còn nhìn thấy anh lần nữa, giống như là một người sắp chết đang tự mình bước đến mộ mình. Tôi sẽ dâng mình làm một nữ tu vào ngày mai, ngay khi ngày bắt đầu. Tôi đến đảo vào lúc đang đêm và đi gõ cửa tu viện, nhưng đã quá muộn, cửa tu viện đã đóng. Họ từ chối mở cửa cho tôi. Tôi đã đến đây để qua đêm và để hôn các bức tường của ngôi nhà của cha tôi trước khi vào nhà của Thiên Chúa và trong ngôi mộ của trái tim mình. Tôi đã nhờ một đứa bé viết cho một người bạn ngày mai đến đây tìm tôi. Tôi lấy chìa khóa. Tôi thắp lên ngọn đèn trước tượng Đức Mẹ. Tôi quỳ xuống và tôi đã khấn, một ước nguyện cuối cùng, một ước nguyện của hy vọng ngay trong lúc đang tuyệt vọng. Như anh sẽ biết, nếu bao giờ anh yêu, luôn luôn có một tia sáng cuối cùng của ngọn lửa ở tận đáy tâm hồn, ngay cả khi người ta nghĩ rằng tất cả đã tắt lịm. "Lạy thánh Nữ quan phòng, tôi đã thưa với Đức Mẹ, hãy gửi cho con một dấu hiệu về ơn Thiên triệu của con để đảm bảo rằng tình yêu không lừa dối con, và con xin thật sự dâng cho Chúa một cuộc sống không phải chỉ thuộc về một mình anh ta! 

"Đây là đêm cuối cùng của con giữa những người đang sống. Không ai biết nơi con ở qua đêm. Có lẽ ngày mai họ sẽ đến đây tìm con khi con không còn ở đây nữa. Nếu người bạn mà con đã nhờ báo tin đến đầu tiên, đó sẽ là dấu hiệu cho thấy con phải hoàn thành ý định của con, và con sẽ theo cô ấy vào tu viện mãi mãi.
"Nhưng nếu đó là anh ta xuất hiện trước người bạn nữ tu! ... anh ta đến do sự hướng dẫn của thiên thần của con, khám phá ra con và ngăn chặn con trước khi sắp bước vào một cuộc sống khác!... Ôi! bấy giờ, đó sẽ là dấu hiệu ngài chưa muốn con theo ngài, và con sẽ phải trở về với anh ta để yêu thương anh ta suốt những ngày còn lại của mình!

"Xin hãy khiến cho anh ta đến trước! Tôi đã nói thêm. Xin hãy làm thêm phép lạ này nữa, nếu như đó là ý định của Mẹ và của Thiên Chúa! Để có được điều đó, con xin dâng Đức Mẹ một món quà, điều duy nhất mà con có thể làm, con một kẻ vốn không có gì cả. Đây là tóc của con, mái tóc dài và đáng thương của con, mà anh ta thích và thường hay cười và gỡ nó ra để cho gió thổi xõa trên vai của con. Xin Đức Mẹ hãy nhận lấy, con sẽ tự mình cắt đi để chứng tỏ cho Đức Mẹ thấy là con không dành lại cái gì cho con cả, và đầu tóc của con sẽ nhận trước mũi kéo mà ngày mai sẽ cắt nó để chia cách con ra khỏi cuộc đời." Nói xong những lời này, cô ta dùng bàn tay trái của mình vén cái khăn tay lụa trùm phủ đầu, và tay kia cầm lấy một lọn tóc dài của mái tóc cô ta đã cắt và đặt nằm cạnh cô ta trên giường, rũ nó ra và đưa cho tôi xem. "Đức Mẹ đã làm phép lạ!", cô ta nói tiếp với một giọng mạnh mẽ hơn và với một âm điệu của niềm vui trong lòng. "Người đã sai anh đến!

Tôi sẽ đi bất cứ nơi nào anh muốn. Tóc của tôi là thuộc về đức Trinh nữ. Cuộc đời của tôi là của anh! Tôi vội vã cầm những lọn tóc đen xinh đẹp đã bị cắt rời của cô ấy, mà giờ đây chỉ còn lại trong tay tôi giống như một cành khô bị tách ra khỏi cây. Tôi vồ vập hôn chúng bằng những nụ hôn câm nín, tôi áp chúng vào trái tim mình, tôi tưới đẵm chúng bằng nước mắt như thể chúng là một phần của chính cô ta đã chết đi và tôi đã chôn vùi trong lòng đất. Sau đó, trong khi ngước mắt nhìn lên cô ta, tôi thấy cái đầu xinh xắn của cô ta lúc tháo bỏ khăn đã trọc hết tóc, nhưng cũng giống như được trang trí và làm đẹp ra nhờ vào sự hy sinh này của mình nên tỏa sáng với niềm vui và tình yêu ở giữa những mẩu tóc cụt màu đen và không đồng đều của mái tóc bị giựt đứt nhiều hơn là được cắt bằng kéo. Cô ta hiện ra cho tôi như là bức tượng cụt Tuồi Trẻ mà ngay cả những sự xói mòn của thời gian cũng nâng thêm sự duyên dáng và vẻ đẹp bằng cách khươi thêm sự mủi lòng khi chiêm ngưỡng. Sự tự hủy hoại mình, sự giết chết vẻ đẹp của mình vì tinh yêu tôi này đập vào trái tim tôi mà sự rúng động làm rung chuyển toàn thân tôi và xui tôi vội vàng cúi đầu xuống đất dưới chân cô ta. Tôi linh cảm thấy thế nào là yêu và tôi đã xem sự linh cảm này là tình yêu! 


XXI

Than ôi! đây không phải là tình yêu trọn vẹn, đây chỉ là một cái bóng trong tôi. Nhưng tôi quá trẻ và quá ngây thơ để không bị mình lừa dối mình. Tôi nghĩ rằng tôi tôn thờ cô ta như thể bấy nhiêu ngây thơ, vẻ đẹp và tình yêu là xứng đáng được tôn thờ cho một người yêu. Tôi nói điều ấy với cô ta bằng một giọng chân thành mà cảm xúc tạo cho và với niềm say mê chất chứa mà sự cô đơn, đêm tối, nỗi tuyệt vọng, những giọt nước mắt đã cho tôi. Cô ta đã tin, bởi vì cô ta cần tin vào những điều đó để sống, và bởi vì tự cô ta cũng đã có đủ niềm đam mê trong tâm hồn mình để bù đắp cho những sự  thiếu hụt của hàng ngàn trái tim khác.
Trọn cả đêm đã trôi qua như vậy trong các mẩu trò chuyện đầy tin tưởng nhưng khờ khạo và trong sạch của hai tâm hồn bộc lộ một cách ngây thơ sự trìu mến của họ và họ muốn đêm tối và sự im lặng sẽ là vĩnh cửu để cho không có gì khác lạ đối với họ đến để xen vào giữa lời nói của cửa miệng và con tim của họ. Lòng mộ đạo của cô ta và sự dè dặt nhút nhát của tôi, cũng như sự mủi lòng của tâm hồn chúng tôi, đã xua đi khỏi chúng tôi mọi sự nguy hiểm khác. Tấm màn nước mắt của chúng tôi đã ở trên chúng tôi. Không có gì xa hẳn sự khoái lạc bằng sự mủi lòng. Lợi dụng tình thân mật như vậy là xúc phạm đến hai tâm hồn. 

Tôi nắm giữ hai bàn tay cô ta trong tay tôi. Tôi cảm thấy tay cô ta sinh động trở lại. Tôi đã đi lấy nước sạch trong vốc lòng bàn tay của tôi để cho cô ta uống hoặc để lau trán và má của cô ta. Tôi ném thêm vài nhánh cây nhúm lại ngọn lửa, sau đó quay lại và ngồi trên hòn đá bên cạnh bó cây sim mà cô ta đang tựa đầu để nghe cô ta nói và nghe tiếp những lời tâm sự ngọt ngào của tình yêu: rằng tình yêu ấy đã nảy sinh ra một cách không hay biết dưới cái vẻ ngoài tình thân mật dịu dàng và trong sáng của một người em gái như thế nào; rằng tình yêu ấy đầu tiên đã có những báo động, nhưng sau đó lại được trấn an như thế nào; bằng vào dấu hiệu nào mà cuối cùng cô ta đã nhận ra là cô ta yêu tôi; rằng đã có biết bao dấu hiệu kín đáo về sự ưu ái mà cô ta đã dành cho tôi ngoài sự nhận biết của tôi; rằng có ngày cô ta nghĩ rằng cô ta đã bị phản bội; ngày khác cô ta lại nghĩ rằng cô ta đã nhận thấy tôi đã đáp lại cô ta; những giờ nào, cử chỉ nào, những cái mỉm cười, những lời nói thốt ra và đã được giữ lại, những tiết lộ hoặc những đám mây mờ ngoài ý muốn trên khuôn mặt của chúng tôi trong sáu tháng nay. Ký ức của cô ta đã lưu giữ tất cả; cô ta nhớ lại tất cả mọi thứ, giống như cỏ của những dãy núi vùng Trung Ý mà gió đã mang ngọn lửa đến trong mùa hè, giữ lại những dấu vết của đám cháy ở tất cả những nơi mà ngọn lửa đã đi qua. 


XXII

Cô ta nói thêm rằng những sự mê tín kỳ diệu của tình cảm đã làm cho các trường hợp vô nghĩa nhất có một ý nghĩa và một giá trị. Có thể nói là cô ta đã lần lượt vén lên từng cái một tất cả những chiếc mạng che phủ tâm hồn cô ta trước mặt tôi. Cô ta tự bộc lộ mình như là với Thiên Chúa trong sự mộc mạc trong trắng của tuổi thơ, của sự phó thác mình cho Chúa. Chỉ có một lần trong đời tâm hồn có những khoảnh khắc như thế này, khi nó trút hết tất cả vào một tâm hồn khác với tiếng thì thầm bất tận của đôi môi mà vẫn không thể đáp ứng đủ cho sự thổ lộ tình yêu của mình, và cuối cùng chấm dứt bằng những âm thanh ấp úng không rõ ràng và lẫn lộn như những nụ hôn của một đứa trẻ bắt đầu ngủ. Tự tôi cũng không hề chán hết nghe rên rỉ lại rùng mình. Mặc dù trái tim tôi hãy còn quá nông nổi và quá non nớt của tuổi trẻ, chưa đủ chín muồi hay mau mắn để tự mình phát sinh những cảm xúc nóng bỏng và thần tiên, những cảm xúc này khi lọt vào tâm hồn tôi, đã cho tôi một ấn tượng rất mới lạ và rất êm ả đến nỗi khi cảm nhận ra nó tôi nghĩ là tôi đang thử nghiệm chúng. Thật là sai lầm! Tôi là băng tuyết và cô ta là ngọn lửa. Trong khi phản chiếu ngọn lửa, tôi lại tưởng là tôi sản sinh ra nó. Không sao; sự rực rỡ khuyếch tán từ kẻ này qua kẻ khác, dường như thuộc về cả hai và bao lấy chúng tôi trong bầu không khí cùng chung một tình cảm như nhau.


XXIII

Và cái đêm mùa đông dài ấy đã trôi qua như vậy. Đối với cô ta cũng như với tôi, đêm này chỉ là  khoảng thời gian của tiếng thở dài nói lên mình yêu. Dường như đối với chúng tôi, khi ngày đã ló dạng thì nó cũng làm gián đoạn cả cái tiếng nói vừa chỉ mới bắt đầu này. 

Tuy nhiên mặt trời đã lên cao trên đường chân trời khi những tia sáng của nó len qua các cửa chớp đang đóng và làm mờ nhạt ánh sáng của ngọn đèn. Vào lúc tôi mở cánh cửa lớn, tôi thấy tất cả gia đình người ngư phủ đang chạy lên cầu thang. Người nữ tu trẻ của Procida, bạn của Graziella, người mà hôm qua cô ta đã nhắn tin và bày tỏ ý định hôm sau vào tu viện, nghi ngờ cô ta bị thất tình nên đã gửi một trong những người em của mình đang đêm đến Naples để báo cho thân nhân biết về quyết định của Graziella.

Được tin là cháu mình đã được tìm thấy như vậy, họ vội vã đến trong nỗi vui mừng và hối hận, để ngăn chặn cô ta bên bờ tuyệt vọng và mang cô ta về lại với họ được tự do và được tha thứ.
Bà nội sụp quỳ xuống gần chiếc giường, trong khi dùng hai tay đẩy hai đứa bé mà họ đã dẫn theo để làm xiêu lòng cô ta, và dùng chúng như một tấm mộc che chắn cho mình đỡ lại những lời trách móc của cô cháu gái. Hai đứa bé nhào vào tay của chị chúng vừa la hét vừa khóc. Trong khi ngồi dậy để vuốt ve chúng và ôm hôn bà nội mình, chiếc khăn tay trùm đầu của Graziella rơi xuống và để lộ cho thấy đầu cô ta đã trọc hết tóc. Nhìn thấy sự hủy họai vẻ đẹp của cô ta mà họ đã quá hiểu ý nghĩa, họ rùng mình. Những tiếng nức nở lại vang lên một lần nữa trong nhà. Người nữ tu vừa mới đến trấn tĩnh lại tất cả mọi người; cô ta lượm các lọn tóc bị cắt rời lên trước mặt Graziella, xếp vào một cái khăn tay lụa trắng và chạm mớ tóc vào tượng Đức Mẹ, và đặt mớ tóc lại trong cái tạp dề của bà nội. "Hãy cất giữ nó, cô ấy nói, để thỉnh thoảng chỉ cho cô ta thấy khi hạnh phúc hay khi đau khổ của mình hầu  nhắc nhở khi cô ta thuộc về người cô ta yêu rằng sự khởi đầu của trái tim cô ta luôn luôn thuộc về Thiên Chúa, cũng như sự khởi đầu của vẻ đẹp của cô ta thuộc về anh ta là trong mớ tóc này."


XXIV 

Chiều tối hôm đó chúng tôi cùng nhau quay trở lại Naples. Sự nhiệt tình mà tôi tỏ ra để tìm và cứu Graziella trong dịp này đã làm tăng gấp đôi lòng trìu mến của người ngư phủ và bà vợ già đối với tôi. Không một ai trong họ nghi ngờ bản chất của sự quan tâm của tôi đối với cô ta và sự quyến luyến của cô ta đối với tôi. Họ cho rằng tất cả sự chán ghét của cô ta là do cái hình dạng xấu xí của Cecco gây ra. Họ hy vọng sẽ thắng được sự chán ghét này bằng lý lẽ và thời gian. Họ hứa với Graziella là không còn hối thúc cô ta lấy chồng. Chính Cecco cũng năn nỉ cha mình đừng nói về chuyện ấy nữa. Bằng sự khiêm nhường, thái độ và cái nhìn của mình, anh ta đã xin lỗi cô em họ của mình, vì mình là cơ hội cho sự đau khổ của cô ta. Sự bình an đã trở lại trong ngôi nhà.


XXV

Không còn gì gây ra cái bóng mờ trên khuôn mặt Graziella hoặc trên hạnh phúc của tôi nếu không là cái ý tưởng rằng hạnh phúc này sớm hay muộn cũng sẽ bị gián đoạn bởi sự trở về nước của tôi. Khi có ai nói đến cái tên nước Pháp, cô gái đáng thương lại tái mặt đi như thể cô ấy nhìn thấy cái bóng ma của thần chết. Một hôm khi trở về phòng của tôi, tôi thấy tất cả quần áo sang trọng của tôi bị xé rách thành từng mảnh và ném trên sàn.

"Hãy tha thứ cho tôi, Graziella quỳ xuống dưới chân tôi, trong khi ngước nhìn tôi với khuôn mặt biến sắc của mình; chính tôi đã gây ra cái tai họa này. Ôi! xin đừng mắng tôi! Tất cả những gì nhắc nhở cho tôi rằng có một ngày anh sẽ rời bỏ những quần áo thủy thủ làm cho tôi đau đớn! Đối với tôi, một khi anh mặc lại những y phục ngày xưa của anh là có vẻ như anh đã tước bỏ trái tim ngày hôm nay của anh để mang lấy một trái tim khác!" Ngoại trừ những cơn bão nhỏ chỉ nổ ra do sự quyến luyến nhiệt tình của cô ta và dịu xuống dưới vài giọt nước mắt của chúng tôi, ba tháng đã trôi qua như vậy trong một thứ hạnh phúc ảo tưởng mà chỉ cần một chút thực tại va chạm vào chúng tôi cũng đủ phá vỡ. Khu vườn địa đàng của chúng tôi ở trên một đám mây.

Và tôi đã biết được tình yêu như vậy: bằng một giọt nước mắt trong đôi mắt của một đứa trẻ.


XXVI

Chúng tôi có thể đã hạnh phúc bên nhau nếu chúng tôi có thể hoàn toàn quên là có một thế giới khác ngoài chúng tôi, một thế giới khác hơn cái ngôi nhà nhỏ trên sườn đồi Pausilippe này, cái sân thượng phơi ra ánh sáng mặt trời này, căn phòng nhỏ, nơi chúng tôi vừa làm việc vừa chơi một nửa ngày, con thuyền nằm trên bãi cát sỏi ở bờ biển, và mặt biển xinh đẹp này mà cơn gió ẩm ướt và ồn ào đã mang lại cho chúng tôi sự mát mẻ và những điệu du dương của sóng nước!

Nhưng, than ôi! đã có những giờ phút chúng tôi phải suy nghĩ rằng thế giới không dừng lại ở đó, và một ngày nào đó thức dậy chúng tôi sẽ thấy mình không còn bên nhau dưới cùng một ánh trăng hay ánh mặt trời. Tôi đã sai lầm buộc tội sự khô khan của trái tim tôi lúc ấy khi so sánh với những gì mà nó đã cảm thấy kể từ đó. Tự thâm tâm, tôi bắt đầu yêu Graziella ngàn lần hơn là tôi thú nhận với chính mình. Nếu tôi đã không yêu cô ta nhiều như vậy, dấu ấn cô ta để lại suốt cuộc đời trong tâm trí của tôi đã không sâu đậm và đau đớn như vậy, và ký ức về cô ta đã không nhập thể vào trong tôi một cách rất ngọt ngào và rất buồn bã, hình ảnh của cô ta đã  không rất sống và rất rạng rỡ trong kỷ niệm của tôi đến thế. Mặc dù trái tim của tôi lúc bấy giờ là cát đá, đóa hoa biển đã bắt rễ sâu hơn một mùa như những cành hoa huệ kỳ diệu của cái bãi biển nhỏ bé mà chúng đã bắt rễ trên sỏi cát của hòn đảo Ischia.


XXVII

Có con mắt nào lại thiếu đi những tia sáng, trái tim nào lại lịm tắt từ lúc mới sinh để không yêu cô ta? Vẻ đẹp của cô ta dường như phát triển trong một đêm đến sáng với tình yêu của mình. Cô ta không lớn nữa, nhưng cô ta đã phát triển trọn vẹn những nét duyên dáng của mình.

Xin tạ ơn, hôm qua là đứa bé. hôm nay là cô gái đang xuân. Hình dáng mảnh mai của cô ta đã biến đổi một cách trông thấy thành những đường nét dịu dàng và đầy đặn hơn của tuổi thiếu nữ. Vóc người cô ta khi nhìn theo chiều thẳng đứng vẫn không mất vẻ uyển chuyển. Đôi chân trần xinh đẹp của cô ta không dẫm rất nhẹ trên sàn đất nện nữa. Cô kéo lê với sự lãnh đạm và vẻ uể oải này như in lên khắp cơ thể cái trọng lượng của những ý tưởng yêu đương đầu tiên của người phụ nữ. Tóc của cô ta mọc trở lại rậm dày với nhựa sống mạnh mẽ của loài rong biển dưới những lớp sóng ấm áp của mùa xuân. Tôi thường đùa nghịch quấn tóc cô ta quanh ngón tay của tôi và  kéo dài ra trên vạt viền của chiếc áo cánh màu xanh lục của cô ta để đo sự tăng trưởng. Làn da của cô ta trắng ra và đồng thời ửng cùng màu với màu hồng của bột san hô hàng ngày bám trên đầu các ngón tay cô ta. Mỗi ngày mắt cô ta lớn lên và mở ra hơn như để ôm ấp một chân trời có thể hiện ra cho cô ta bất thình lình.

Đó là điều kỳ diệu của sự sống khi Galatée đầu tiên cảm thấy một nhịp thoi thóp dưới khối cẩm thạch. Cô ta đã có những sự e thẹn và những sự rụt rè trong thái độ, cái nhìn, cử chỉ một cách không cố ý mà trước đây cô ta không bao giờ có. Tôi nhận thấy điều ấy, và tôi thường hoàn toàn im lặng và thấy mình run rẩy bên cạnh cô ta. Người ta có thể bảo chúng tôi là hai kẻ phạm tội, và chúng tôi chỉ là hai đứa trẻ quá hạnh phúc.

Tuy nhiên, thời gian gần đây đã có một nỗi buồn sâu đậm dấu kín hay bộc lộ ra trong niềm hạnh phúc này. Chúng tôi không biết rõ tại sao. Nhưng định mệnh thì đã biết. Đó là cảm giác của sự ngắn ngủi của thời gian mà chúng tôi còn được gần gũi bên nhau. 


XXVIII

Thường thường Graziella, thay vì vui vẻ tiếp tục công việc của cô ta sau khi mặc quần áo và chải chuốt cho các em nhỏ của mình, thì lại ngồi ở chân bức tường đỡ sân thượng dưới bóng những chiếc lá rộng của một cây sung mọc từ dưới đất và vươn lên cao tận bờ tường. Cô ta ngồi bất động ở đó, nhìn xa xăm cả nửa ngày. Khi bà nội cô ta hỏi phải chăng cô ta bị bệnh thì cô ta bảo là không phải, nhưng cô ta mệt mỏi vì trước đó đã làm việc. Cô ta không muốn ai hỏi cô ta vào lúc đó. 

Cô ta quay mặt với tất cả mọi người, ngoại trừ tôi. Nhưng với tôi, cô ta chỉ nhìn thật lâu mà không nói điều gì cả.

Đôi khi môi cô ta mấp máy như thể cô ta đang nói, nhưng cô ta lại lúng búng những tiếng mà không ai nghe rõ. Người ta thấy những cái lăn tăn nhẹ, khi thì màu trắng, khi màu hồng, chạy trên làn da của má cô ta và làm cho nó gợn nhăn giống như làn nước đang ngủ yên gặp phải điềm linh cảm đầu tiên của những cơn gió vào buổi sáng. Nhưng khi tôi ngồi bên cạnh, cầm lấy tay cô ta, cù nhè nhẹ lên hàng mi dài của đôi mắt nhắm với quản bút của tôi hay với đầu mút của một cọng hương thảo, lúc ấy cô ta quên hết mọi thứ, bắt đầu cười và nói chuyện như trước. Chỉ có điều là cô ta có vẻ buồn sau khi cười và đùa nghịch với tôi.

Đôi khi tôi nói với cô ta: "Graziella à, em nhìn cái gì xa dưới kia, xa dưới kia tận góc biển hàng giờ như vậy? Có phải em nhìn thấy có cái gì ở đó mà chúng tôi không nhìn thấy, chúng tôi ấy?
- Tôi thấy nước Pháp phía sau dãy núi băng tuyết, cô ta trả lời.
- Và những gì em thấy như vậy ở Pháp có đẹp không? Tôi thêm vào.
- Tôi thấy có một người giống anh, cô ta trả lời, một người bước đi, bước đi, bước đi,  trên một con đường dài trắng xóa mà không bao giờ dứt. Anh ta bước đi mà không nhìn lại, luôn luôn, luôn luôn hướng về phía trước, và tôi đợi hàng giờ, hy vọng rằng anh ta quay lui để đi trở về lại. Nhưng anh ta không quay trở lại!" Và sau đó cô ta giấu mặt trong tấm tạp dề và cho dù tôi có gọi cô ta bằng những cái tên âu yếm nhất, cô ta vẫn không ngẩng khuôn mặt xinh đẹp của cô lên nữa.

Lúc ấy, tôi buồn bã trở về phòng của mình.
Tôi cố gắng đọc sách để khuây khỏa, nhưng tôi vẫn luôn luôn nhìn thấy khuôn mặt của cô ta giữa đôi mắt của tôi và trang sách. Dường như chữ nghĩa cũng lên tiếng nói và chúng thở dài như trái tim của chúng tôi. Tôi cũng thường kết thúc bằng cách khóc một mình, nhưng tôi đã xấu hổ về nỗi buồn của tôi, và tôi không bao giờ nói với Graziella rằng tôi đã khóc. Tôi đã sai, một giọt nước mắt của tôi có lẽ đã mang lại nhiều điều tốt biết bao cho cô ta! 


XXIX

Tôi nhớ lại cái cảnh đã làm cho cô ta đau khổ nhất và cô ta không bao giờ hồi phục hoàn toàn.
Từ ít lâu nay cô ta kết bạn với hai ba cô gái trạc tuổi mình. Những cô gái này sống tại một trong những ngôi nhà nhỏ trong các khu vườn. Họ sửa chữa và ủi áo quần cho học sinh một ký túc xá dành cho các thiếu nữ Pháp. Vua Murat đã thành lập ngôi trường này ở Naples cho con gái của các bộ trưởng và tướng tá của mình. Những cô gái Procitane này thường nói chuyện với Graziella từ bên dưới trong khi làm công việc của họ, còn cô ta nhìn họ từ trên bức tường đỡ sân thượng. Họ cho cô ta xem những ren tốt, lụa đẹp, nón mũ đẹp, giày dép tốt, những cái nơ đẹp, những khăn choàng mà họ nhận về hoặc mang đi giao cho các học sinh trẻ của ký túc xá này. Toàn là những lời kinh ngạc và trầm trồ không ngớt. Đôi khi các cô gái trẻ ấy đến rủ Graziella để đưa cô ta đi lễ hoặc đi chầu Thánh thể buổi chiều trong ngôi nhà nguyện nhỏ của Pausilippe. Tôi đi trước họ khi ngày đã tàn và tiếng leng keng liên tục của chiếc chuông báo cho tôi biết vị linh mục sắp ban phước lành. Chúng tôi trở về nhà bằng cách đi thơ thẩn trên bãi cát biển và men theo vết những lượn sóng rút và nhảy tránh khi lượn sóng ập trở lại với một cái gờ của bọt nước trên chân chúng tôi. Lạy Chúa! trông Graziella lúc ấy mới đẹp làm sao, khi mà, run sợ làm ướt đôi hài thêu kim tuyến xinh đẹp của mình, cô ta chạy, hai cánh tay dang ra hướng về tôi như thể để tìm sự trú ẩn trong lồng ngực tôi hầu chống lại con sóng ganh tị muốn giữ cô ta lại hay ít ra cũng liếm được bàn chân cô ta! 


XXX

Tôi thấy trong thời gian gần đây cô ta hay giấu tôi một điều gì đó trong ý nghĩ. Cô ta hay có những lần trò chuyện bí mật với mấy cô bạn thợ may trẻ của mình. Nó giống như một âm mưu nho nhỏ mà họ không muốn để cho tôi tham dự vào. Một buổi tối tôi đọc sách trong phòng của tôi, dưới ánh sáng của một ngọn đèn nhỏ bằng đất đỏ. Cửa phòng hướng ra sân thượng được mở ra để cho gió hiu hiu từ biển thổi vào. Tôi nghe có tiếng ồn, những lời thì thầm to nhỏ của các cô gái, những tiếng cười bị dằn xuống, sau đó là những tiếng than phiền nho nhỏ, những lời nói hài hước và rồi những tràng tiếng nói mới bị ngắt quãng bởi những hồi im lặng dài trong phòng của Graziella và mấy đứa em. Thoạt tiên tôi không mấy chú ý.
Tuy nhiên, cái cách thức mà người ta dằn nén những tiếng thì thầm và cái kiểu như có gì bí ẩn giữa các cô gái kích thích sự tò mò của tôi. Tôi đặt cuốn sách xuống, cầm cây đèn đất của tôi trong tay trái của mình, còn bàn tay phải che những cơn gió để cho nó khỏi tắt. Tôi đi qua sân thượng thật im lặng, để không gây tiếng động trên đá lát. Tôi áp tai vào cánh cửa phòng Graziella. Tôi nghe tiếng những bước chân đi lại trong phòng, tiếng sột soạt của vải vóc được mở ra hay gấp lại, những tiếng lách cách của cái khâu, kim may, kéo của đàn bà đang chỉnh sửa các nơ, ghim các khăn choàng, và những câu nói đùa, những tiếng thì thào của những tiếng mới lạ  mà tôi thường nghe trong nhà của mẹ tôi khi các chị tôi ăn mặc để đi dự dạ vũ.

Không có cuộc lễ hội nào ở Pausillipes vào ngày hôm sau. 

Graziella chưa bao giờ nghĩ đến việc làm tăng vẻ đẹp của mình bằng trang điểm. Ngay cả phòng của cô ta cũng không có một tấm gương. Cô ta soi mình bằng cách nhìn vào xô nước giếng trên sân thượng, hay đúng hơn là cô ta chỉ ngắm mình trong mắt tôi.
Tôi không cưỡng lại được tính tò mò trước sự bí ẩn này. Tôi đẩy cánh cửa bằng đầu gối. Cánh cửa bật ra. Tôi xuất hiện, ngọn đèn trong tay, trên ngưỡng cửa.
Các cô gái thợ may kêu lên một tiếng và bỏ chạy như chim bay, tìm chỗ trốn trong các góc phòng như thể bị bắt quả tang đang phạm tội. Họ vẫn còn giữ trong tay các vật tang chứng. Người thì sợi chỉ, kẻ cây kéo, kẻ này những đóa hoa, kẻ khác các giải băng. Nhưng Graziella, được đặt ngồi trên chiếc ghế gỗ nhỏ ở giữa phòng thì như quá sững sờ trước sự xuất hiện bất ngờ của tôi, không thể trốn thoát. Cô ta ngượng đỏ người giống như một cái bông lựu. Cô ta đưa mắt nhìn xuống gần như nín thở, không dám nhìn tôi. Mọi người đều nín lặng chờ xem tôi sắp nói gì. Tôi không nói gì cả. Tâm trí tôi bị thu hết vào trong sự ngạc nhiên và sự ngẫm nghĩ im lìm những gì tôi nhìn thấy.

Graziella đã trút bỏ bộ quần áo bằng len thô của mình, cái áo cánh có viền theo kiểu Procida hơi hở ngực, đôi hài cườm vàng gót gỗ mà cô ta vẫn xỏ đôi bàn chân thường để trần, những cây trâm dài đầu tròn bằng đồng quấn bộ tóc đen của cô ta nằm ngang trên đỉnh đầu như một cái trục căng buồm trên tàu. Đôi bông tai lớn như vòng đeo tay bị ném hỗn độn trên giường với quần áo ban ngày của mình.
Thay cho bộ quần áo đẹp đẽ kiểu Hy Lạp phù hợp với kẻ nghèo cũng như người giàu, nhờ chiếc áo dài buông nửa chừng xuống chân dưới đầu gối, và nhờ phần khoét của chiếc áo cánh và tay áo bị cắt để cho thấy sự thong dong và uyển chuyển của tất cả thân hình người phụ nữ, những cô bạn trẻ của Graziella đã mặc cho cô ta theo lời yêu cầu, quần áo và đồ trang điểm của một cô gái Pháp của ký túc xá có vóc người và cùng trạc tuổi với cô ta. Họ mặc cho cô ta một chiếc áo dài lụa óng ánh, một đai lưng màu hồng, chiếc khăn màu trắng, một chiếc mũ có trang trí hoa giả, giày sa tanh màu xanh, vớ lụa để lộ cho thấy màu da thịt nơi mắt cá chân tròn trịa của cô ta.

Cô ta bối rối trong bộ trang phục vừa bị tôi bắt gặp quả tang này giống như khi bị cái nhìn của một người đàn ông bắt gặp cô ta đang khỏa thân. Chính tôi cũng nhìn cô ta mà không thể quay mắt đi, nhưng không có một cử chỉ, một tiếng bình phẩm, một cái mỉm cười có thể tiết lộ cho cô ta biết cái ấn tượng tôi cảm thấy về cô ta trong bộ trang phục này. Một giọt nước mắt trào lên mắt tôi. Tôi lập tức hiểu ra và hiểu  rõ những suy nghĩ của cô bé đáng thương. Xấu hổ vì sự cách biệt về hoàn cảnh giữa cô ta và tôi, cô ta muốn thử xem nếu như một sự gần gũi hơn trong trang phục có làm cho số phận của chúng tôi gần gũi hơn trong mắt tôi không. Cô ta đã mưu tính với sự giúp đỡ của bạn bè của cô ta để làm cuộc thử nghiệm này mà không cho tôi biết, hy vọng sẽ xuất hiện một cách bất ngờ cũng như là sẽ đẹp hơn đối với tôi và gần với hạng người của tôi hơn mà cô ta nghĩ là bộ quần áo đơn giản của dân hải đảo như mình và hoàn cảnh của mình không làm được.
Cô ta đã quá lầm. Cô ta bắt đầu nhận ra sự im lặng của tôi. Khuôn mặt cô ta biểu lộ một sự mất kiên nhẫn đến độ tuyệt vọng và gần như muốn khóc làm cho tôi hiểu ra cái ý định dấu kín, cái sai lầm và sự thất vọng của cô ta.

Tuy nhiên cô ta cũng rất xinh đẹp khi ăn mặc như vậy. Ý nghĩ của cô ta là phải làm cho mình đẹp hơn hàng ngàn lần dưới mắt tôi. Nhưng vẻ đẹp của cô ta dường như là một cực hình. Nó giống như hình ảnh các trinh nữ trẻ của Correggio bị đóng đinh vào cây cọc trên giàn thiêu tử vì đạo đang quằn quại trong các sợi dây trói để thoát khỏi những cái nhìn xúc phạm sự tiết hạnh của họ. Than ôi! đây cũng là một sự tử vì đạo cho Graziella đáng thương. Nhưng đây không phải là một sự tử vì đạo cho sự hão huyền như người ta có thể nghĩ khi nhìn thấy. Đây là sự tử vì đạo cho tình yêu của mình.

Những thứ trang phục của cô gái lưu trú sinh trẻ người Pháp ở ký túc xá mà họ đã mặc cho cô ta chắc chắn đã được cắt may cho một vóc người gầy ốm và có vai cũng như cánh tay mảnh khảnh của một cô gái cấm cung chừng mười ba hay mười bốn tuổi, nên đã trở nên quá chật cho vóc người cân đối, vai no tròn, và kết hợp chặt chẽ với thân hình của cô gái xinh đẹp của xứ mặt trời và biển này. Chiếc áo dài bị bung ra khắp nơi trên vai và ngực, xung quanh thắt lưng, giống như vỏ cây sung bị nứt nẻ ra trên các cành cây vì nhựa sống mạnh mẽ của mùa xuân. Các cô thợ may trẻ đã ra công ghim lại chỗ này chỗ nọ trên chiếc áo dài và tấm khăn choàng nhưng vải vẫn cứ bị bung ra mỗi khi có cử động. Người ta có thể thấy ở nhiều nơi, qua những chỗ rách của lụa, cái cổ hay cánh tay trần lộ ra dưới các chỗ khâu sửa lại. Lớp vải thô của áo sơ mi xuyên qua những chỗ bó sát của chiếc áo dài và tấm khăn choàng đã tạo ra một sự tương phản giữa cái cứng cỏi của vải với sự sang trọng của lụa. Tay áo chật và ngắn làm cho các cánh tay phô ra như một con bướm màu hồng từ cái kén mà nó làm cho phồng lên và rách toạc ra. Bàn chân cô ta vốn quen để trần hoặc mang đôi dép rộng kiểu Hy Lạp, khiến cho vải sa tanh của đôi giày bị xoắn lại như thể giam hãm cô ta trong những cái xích của những sợi dây buộc như dép xung quanh chân của mình. Tóc của cô ta được vén lên và gom lại không khéo trong mạng ren và hoa giả khiến cho cả cái đầu tóc như tự nâng lên và tạo cho khuôn mặt duyên dáng bị người ta muốn làm cho biến dạng một cách vô ích như vậy một biểu lộ của sự trâng tráo trong cách trang điểm và sự xấu hổ khiêm tốn trong diện mạo thành một sự tương phản rất kỳ lạ và rất lý thú.

Thái độ của cô ta cũng lúng túng như nét mặt của cô ta. Cô ta không dám nhúc nhích vì e sợ làm rơi những bông hoa trên trán hoặc làm nhăn chỗ đã điều chỉnh. Cô không thể bước đi vì giày của cô ta gò bó bàn chân và tạo cho bước chân cô ta những cái vụng về dễ thương. Có thể nói là nàng E-và ngây thơ của xứ mặt trời và biển đã vướng phải cái bẫy của sự làm dáng đầu tiên của mình. 


XXXI

Sự im lặng kéo dài một hồi lâu trong phòng. Cuối cùng, cảm thấy khó chịu hơn là vui thích về sự đánh mất đi cái đẹp tự nhiên này, tôi tiến đến gần cô ta và bĩu môi một cái với vẻ hơi chế nhạo, và nhìn cô ta với một vẻ biểu lộ ý hơi trách móc và chế diễu nhẹ nhàng, bằng cách giả vờ như không nhận ra cô ta dưới lớp trang phục lỉnh kỉnh này.

"Sao thế, tôi nói với cô ta, có phải em đấy không, Graziella? Ồ! có ai còn nhận ra cô gái Procitane xinh đẹp trong con búp bê của Paris này không?
Nào, tôi tiếp tục nói một cách hơi cộc cằn hơn, em không thấy xấu hổ khi thay đổi hình dạng mà Chúa đã ban cho em được duyên dáng như vậy trong bộ trang phục tự nhiên hay sao? Dù cho em có làm cách gì đi nữa thì em cũng sẽ không bao giờ thay đổi được mình là một cô gái của sóng biển dưới chân và đội trên đầu những tia nắng của bầu trời xinh đẹp của em. Em phải nên bằng lòng với điều ấy và cảm ơn Chúa. Những cái lông của chim nuôi trong lồng sẽ không bao giờ thích hợp với loài chim én biển." Những lời này làm cho cô ta nhói tận tim. Cô ta không hiểu nổi cái gì làm cho trong tâm trí tôi có sự ham thích mê say và lòng yêu tha thiết loài én biển. Cô ta nghĩ rằng tôi thách thức cô ta là sẽ không bao giờ có được một vẻ đẹp của giòng giống tôi và đất nước tôi. Cô ta nghĩ rằng tất cả những cố gắng của cô ta để làm cho mình được đẹp hơn và để đánh lừa đôi mắt của tôi về hoàn cảnh thấp kém của mình đã bị tiêu tan. Cô ta đột nhiên vùng lên khóc, và ngồi trên giường, giấu mặt trong tay, cô ta năn nỉ bằng một giọng hờn dỗi mấy cô bạn trẻ đến gỡ những món trang điểm gớm ghiếc của cô ta. "Tôi biết rõ mà, cô ta nói một cách rên rỉ, tôi chỉ là một cô gái Procitane nghèo.

Nhưng tôi nghĩ rằng khi thay đổi trang phục tôi sẽ không làm anh xấu hổ nhiều đến thế nếu một ngày nào đó tôi theo anh về xứ của anh. Tôi thấy rõ là tôi phải chấp nhận những gì tôi có và chết nơi tôi được sinh ra.
Nhưng lẽ ra anh không nên trách mắng tôi về điều này." Nói xong những lời này, cô ta hờn dỗi rứt bỏ  những chiếc hoa, mũ, khăn, và ném chúng xuống bằng một cử chỉ giận dữ, chà đạp chúng dưới chân trong khi nói những lời khiển trách chúng, giống như bà nội của cô ta đã làm với các mảnh ván sau khi con thuyền bị đắm. Sau đó, nhào về phía tôi, cô ta thổi tắt ngọn đèn trong tay tôi để tôi không thể nhìn thấy cô ta trong bộ y phục đã làm tôi không vừa ý này.
Tôi cảm thấy là tôi đã sai trái khi nói đùa quá cộc cằn với cô ta, và câu chuyện đùa lại nghiêm trọng. Tôi xin lỗi cô ta. Tôi nói với cô ta sở dĩ tôi trách mắng cô ta như vậy chỉ là vì tôi thấy cô ta trong trang phục cô gái Procitane thì xinh đẹp nghìn lần hơn là trong trang phục cô gái Pháp. Đó là sự thật. Nhưng chuyện đã lỡ rồi. Cô ta không còn nghe tôi nói nữa, cô ta khóc nức nở.

Mấy người bạn thay đồ cho cô ta; tôi chỉ nhìn thấy lại cô ta vào ngày hôm sau. Cô ta đã mặc lại bộ quần áo dân hải đảo của mình. Tuy nhiên, mắt cô ta đỏ quầng vì những giọt nước mắt mà sự nói đùa này đã làm cho cô ta suốt đêm mất ngủ!  


XXXII

Cũng vào thời gian này, cô ta bắt đầu để ý các thư từ mà tôi nhận được từ Pháp, nghi ngờ rằng những lá thư này gọi tôi trở về. Cô ta không dám đánh cắp những bức thư này của tôi vì cô ta rất trung thực và không có khả năng lừa dối, ngay cả đối với cuộc sống của mình. Nhưng cô ta giữ chúng lại đôi khi chín ngày, và gắn chúng bằng một cái kẹp mạ vàng của mình đằng sau bức ảnh Đức Mẹ bằng giấy treo trên tường bên cạnh giường của cô ta. Cô ta nghĩ rằng Đức Nữ đồng trinh bị xúc động trước nhiều lần đọc kinh tuần cửu nhật cầu cho tình yêu của chúng tôi sẽ làm thay đổi một cách kỳ diệu nội dung các bức thư, và chuyển đổi các lệnh gọi trở về thành ra lời mời ở lại bên cô ta. Không một sự gian dối nhỏ nào có tính cách thành kính này thoát khỏi mắt tôi, và tất cả đã làm cho tôi càng trở nên tha thiết với cô ta.
Nhưng ngày giờ đã đến gần. 


XXXIII

Một buổi tối vào những ngày cuối của tháng Năm, có người gõ mạnh ở cửa. Cả gia đình đang ngủ. Tôi ra mở cửa. Đó là anh V... bạn của tôi. "Tôi đến tìm bạn, anh ta nói với tôi. Đây là bức thư của mẹ bạn. Bạn không cưỡng lại được nữa. Ngựa đã được sắp sẵn cho chuyến đi vào nửa đêm. Bây giờ là 11 giờ. Hãy lên đường, hoặc bạn sẽ không bao giờ đi. Mẹ của bạn sẽ chết mất. Bạn biết là gia đình của bạn đã trút hết trách nhiệm lên mẹ bạn về tất cả những lỗi lầm của bạn. Bà ta đã hy sinh cho bạn biết ngần nào, bạn hãy hy sinh cho bà ấy một lúc. Tôi hứa với bạn là tôi sẽ trở lại đây với bạn để ở qua mùa đông và thêm trọn một năm dài ở đây. Nhưng bạn phải tỏ ra có thiện chí để có mặt trong gia đình của bạn và tỏ sự phục tùng mệnh lệnh của mẹ bạn. Tôi cảm thấy rằng tôi đã bị thua.
"Chờ tôi ở đây ," tôi nói với anh ta. 

Tôi trở về phòng của tôi, thảy hết quần áo một cách vội vàng vào va li . Tôi viết cho Graziella, tôi nói với cô ta tất cả những gì mà sự trìu mến của một trái tim mười tám có thể diễn tả và tất cả những gì lý trí có thể ra lệnh cho một đứa con phải hiếu thảo với mẹ mình. Tôi hứa với cô ta, cũng như hứa với mình rằng trước khi hết tháng thứ tư, tôi sẽ ở bên cạnh cô ta và tôi sẽ không bao giờ rời cô ta nữa. Tôi phó thác số phận tương lai của chúng tôi cho sự quan phòng của Thiên Chúa và tình yêu. Tôi để lại cho cô ta túi tiền của tôi để giúp đỡ ông bà già của cô ta trong khi tôi vắng mặt. Gấp xong bức thư, tôi bước lại không gây tiếng động và quỳ xuống trên ngưỡng cửa phòng cô ta. Tôi hôn lên đá và gỗ của ngôi nhà, tôi luồn lá thư qua khe dưới cửa. Tôi cố nuốt những tiếng nức nở trong lòng đang làm tôi nghẹn ngào.

Bạn tôi xốc nách nâng tôi dậy và kéo tôi theo. Vào lúc này, Graziella có lẽ do tiếng ồn bất thường này báo động cho biết nên mở cửa. Mặt trăng chiếu sáng trên sân thượng. Cô bé đáng thương nhận ra người bạn của tôi. Cô ta nhìn thấy một gia nhân đang vác chiếc va li của tôi trên vai. Cô ta giang tay ra, thốt lên một tiếng kêu sợ hãi và ngã xuống bất tỉnh trên sân thượng.
Chúng tôi vội chạy lại phía cô ta. Chúng tôi mang cô ta đang bất tỉnh về giường. Cả gia đình chạy lại. Người ta tạt nước lên mặt cô ta. Họ gọi cô ta bằng tất cả các giọng nói của những người thân yêu nhất với cô ta. Cô ta chỉ tỉnh lại khi nghe thấy tiếng của tôi. "Bạn thấy đấy, bạn tôi nói với tôi, cô ta còn sống mà, cơn chấn động qua rồi. Những lời giã từ kéo dài chỉ tạo thêm phản ứng dữ dội khủng khiếp hơn." Anh ta gỡ hai cánh tay lạnh giá của cô gái khỏi cổ tôi và kéo tôi ra khỏi nhà. Một giờ sau, chúng tôi đã ở trong chiếc xe đang lăn bánh trong im lặng vào ban đêm trên đường đến Rome. 


XXXIV

Tôi đã để lại nhiều địa chỉ cho Graziella trong bức thư mà tôi đã viết cho cô ta. Tôi tìm thấy một lá thư đầu tiên của cô ta ở Milan. Cô ta nói với tôi là cô ta khoẻ, nhưng tâm hồn vẫn còn đau đớn; tuy nhiên cô ta tin vào lời hứa của tôi và sẽ yên tâm chờ tôi đến tháng mười một.
Đến Lyon, tôi nhận được lá thư thứ hai thanh thản hơn và tin tuởng hơn. Bức thư có kèm vài cánh  hoa cẩm chướng đỏ được trồng trong cái chậu đất trên bức tường thấp đỡ sân thượng, rất gần với  phòng tôi, và cô ta vẫn hay cài một chiếc hoa trên tóc của cô ta ngày chủ nhật. Phải chăng cô ta gửi cho tôi một cái gì đó đã làm cho cô ta xúc động? Phải chăng đây là một sự trách móc nhẹ nhàng ngụy trang dưới một biểu tượng và để nhắc nhở cho tôi rằng cô ta đã hy sinh mái tóc của mình cho tôi?

Cô ta bảo tôi là cô ta "đã bị sốt, tim bị mệt, nhưng cô ta đã đỡ hơn mỗi ngày, để thay đổi không khí và để hồi phục hoàn toàn, người ta đã gửi cô ta đến ở tại ngôi nhà của một người trong số các chị em họ của cô ta, em gái của Cecco, ở một nơi cao ráo và không khí trong lành tại đồi Vomero án ngự thành phố Naples. Sau đó tôi chờ hơn ba tháng mà không nhận được lá thư nào nữa. Ngày nào tôi cũng nghĩ đến Graziella. Lẽ ra tôi phải lên đường trở lại Ý vào đầu mùa đông tới. Hình ảnh buồn và đáng yêu của cô ta hiện ra cho tôi như một sự hối tiếc, và đôi khi giống như là một sự trách móc nhẹ nhàng.

Tôi đang ở vào độ tuổi bội bạc mà những cái phù phiếm và thói a dua làm thành một vết nhơ xấu xa cho tuổi trẻ về những tình cảm tốt nhất của mình; tuổi độc ác khi mà những tặng vật đẹp nhất của Thiên Chúa, tình yêu trong trắng và những tình cảm ngây thơ, rơi xuống trên cát và bị những cơn gió của người đời cuốn đi dễ dàng. Sự kiêu căng xấu xa và khôi hài này của bạn bè của tôi đã thường xuyên đánh tan sự yêu thương thầm kín và sống động tận đáy lòng tôi. Tôi không dám thú nhận mà không đỏ mặt và không bị đem ra làm trò chế giễu như tên tuổi và hoàn cảnh của đối tượng của sự hối tiếc cũng như nỗi buồn của tôi. Graziella không bị quên lãng, nhưng cô ta đã bị phai nhòa trong cuộc sống của tôi. Mối tình làm cho trái tim tôi hân hoan này lại làm cho tôi bị sỉ nhục vì mất đi sự nể trọng của người khác. Kỷ niệm về cô ta mà tôi chỉ  nuôi dưỡng trong lòng trong sự cô đơn thì ở ngoài đời lại đeo đẳng tôi gần như một sự hối hận. Ngày nay tôi thấy xấu hổ biết bao vì tôi đã xấu hổ ngày ấy! và chỉ một tia vui vẻ hay một giọt trong những giọt nước mắt từ đôi mắt trong trắng của cô ta cũng trị giá hơn tất cả những cái nhìn, tất cả những sự khiêu khích, và tất cả những nụ cười này của thiên hạ mà tôi đã sẵn sàng hy sinh hình ảnh của cô ta! Than ôi! con người khi quá trẻ không có khả năng yêu! Hắn không biết giá trị của một thứ gì cả! Hắn không biết hạnh phúc thật sự cho đến khi hắn đã đánh mất! Có bao nhiêu nhựa sống điên cuồng và bóng tối chập chờn trong cây con của rừng thì có bấy nhiêu lửa trong tim già cỗi của cây sồi.

Tình yêu đích thực là quả chín của cuộc sống. Vào năm mười tám, người ta không biết, người ta chỉ tưởng tượng điều đó. Trong cuộc sống thiên nhiên của thực vật, khi quả chín thì lá rụng, điều ấy cũng có thể như vậy trong cuộc sống của con người. Tôi thường nghĩ đến điều đó từ khi tôi đếm những sợi tóc bạc trên đầu tôi. Tôi tự trách mình lúc ấy đã  không biết được giá trị của đóa hoa tình yêu này. Tôi chỉ biết phô trương. Sự phô trương là điều ngu ngốc nhất và độc ác nhất của các tật xấu, bởi vì nó làm cho hạnh phúc phải xấu hổ! ... 


XXXV 

Một buổi tối đầu tháng mười một, lúc trở về sau một cuộc dạ vũ, có người giao lại cho tôi một mảnh  giấy và một gói hàng từ trạm thay đổi ngựa ở Macon mà một du khách từ Naples đến đã mang cho tôi. Người du khách lạ này cho biết là ông ta được một người bạn, giám đốc một hãng sản xuất đồ san hô ở Naples nhờ chuyển giao cho tôi một bức thư quan trọng; ông ta đã thực hiện xong việc được ủy thác, nhưng vì những gì ông ta mang lại cho tôi quá buồn và tang tóc nên ông ta đã không yêu cầu được gặp tôi, ông ta chỉ xin tôi miễn thứ cho sự tiếp xúc tại Paris để giao gói hàng.

Tôi run rẩy mở gói hàng. Trong phong bì đầu tiên là một lá thư cuối cùng của Graziella, trong đó chỉ chứa mấy giòng này: "Bác sĩ nói rằng em sẽ chết trong ba ngày. Em muốn nói lời giã biệt với anh trước khi em kiệt sức. Ôi! nếu có anh ở đây thì em đã sống! Nhưng đó là ý muốn của Thiên Chúa. Chẳng bao lâu nữa em sẽ nói chuyện với anh và luôn luôn là từ trời. Hãy yêu thương linh hồn của em! Linh hồn đó sẽ theo anh suốt cả đời. Em để lại món tóc mà một đêm xưa em đã cắt đi cho anh. Hãy dâng nó cho Chúa trong một nhà nguyện ở xứ anh để cho vẫn còn một cái gì đó của em ở gần bên anh!" 


XXXVI

Tôi rã rời cả người. trong tay vẫn giữ lá thư của cô ta cho đến sáng. Chỉ lúc ấy tôi mới có sức để mở phong bì thứ hai. Tất cả mái tóc đẹp của cô ta ở trong đây, như cái đêm cô ta đã đưa cho tôi xem lúc ở trong căn nhà tranh. Mớ tóc vẫn còn lẫn lộn một vài cọng thạch thảo đã dính vào đêm hôm đó. Tôi đã làm những gì cô yêu cầu trong ước nguyện cuối cùng của cô ta. Một cái bóng ảm đạm về cái chết của cô ta đã hằn lên khuôn mặt của tôi và tuổi trẻ của tôi từ hôm đó.

Mười hai năm sau, tôi trở lại Naples. Tôi đi tìm dấu vết của cô ta. Không còn lại gì cả ở  Margellina hoặc ở Procida. Ngôi nhà nhỏ trên vách đá dựng của hòn đảo đã rơi vào đổ nát. Nó chỉ còn là một đống đá màu xám phía trên căn hầm mà nay các người chăn dê dùng để cho dê trú ẩn những khi trời mưa. Thời gian xóa nhòa mọi thứ một cách nhanh chóng trên mặt đất, nhưng không bao giờ xóa được dấu vết của một tình yêu đầu tiên trong trái tim của một kẻ đã trải qua.

Tội nghiệp Graziella! Nhiều năm tháng đã trôi qua kể từ những ngày đó. Tôi đã yêu, tôi cũng đã được yêu. Những tia sáng tươi đẹp khác và tình âu yếm đã rọi sáng con đường tăm tối của tôi. Những tâm hồn khác mở ra cho tôi để tôi thấy được trong trái tim người phụ nữ cái kho báu mầu nhiệm nhất của vẻ đẹp, sự thánh thiện và sự tinh khiết mà Thiên Chúa đã làm cho sinh động trên trái đất này để làm cho chúng ta hiểu, linh cảm và ao ước nước Trời. Nhưng không có gì đã làm phai nhạt sự xuất hiện đầu tiên của em trong trái tim tôi. Tôi càng sống, tôi càng gần em trong suy nghĩ. Kỷ niệm về em cũng giống như ngọn lửa trên chiếc thuyền của cha em mà khoảng cách làm cho khói tan đi và càng tỏa sáng hơn khi càng ra xa chúng ta. Tôi không biết hình hài em an nghỉ nơi nào, và có còn ai vẫn khóc em ở xứ em, nhưng phần mộ thực sự của em là ở trong tâm hồn của tôi. Đây là nơi em đã đắm chìm và chôn vùi trọn vẹn. Tên của em không bao giờ tác động đến tôi một cách vô ích nữa. Tôi yêu thứ ngôn ngữ mà tên em được phát âm. Tận cùng của trái tim tôi luôn luôn có một giọt nước mắt rỉ ra và rơi một cách bí mật vào sự tưởng nhớ em để làm cho nó luôn tươi mát và để làm cho nó ươm hưong trong lòng tôi.

(1829)


XXXVII 

Một ngày trong năm 1830, vào buổi chiều trong khi bước vào một nhà thờ ở Paris, tôi thấy người ta mang đến một cỗ quan tài của một cô gái trẻ được phủ một tấm khăn màu trắng. Chiếc quan tài này nhắc tôi nhớ đến Graziella. Tôi giấu mình dưới cái bóng của một cây cột. Tôi mơ tưởng về Procida, và tôi khóc thật lâu.
Nước mắt tôi khô, nhưng những đám mây đã đi qua tâm trí tôi trong nỗi buồn của một mộ phần không tan biến. Tôi trở về một cách lặng lẽ trong phòng của tôi. 

Tôi ôn lại những kỷ niệm đã được tả ra trong thiên hồi ký dài này và tôi viết liền một mạch trong khi khóc những câu thơ có tựa đề Niềm Hối tiếc đầu tiên. Đó là âm điệu đã suy yếu bởi hai mươi năm xa vắng, một tình cảm đã  làm nảy sinh ra nguồn suối đầu tiên của trái tim tôi. Nhưng người ta vẫn còn cảm nhận được ở đây cái cảm xúc của một sợi tơ lòng đã bị thương và không bao giờ lành lại. Đây là những câu thơ, một hương hoa của một vết thương, nhuộm hồng một trái tim mùi hương của hoa mộ phần. Bài thơ chỉ thiếu có cái tên của Graziella. Tôi sẽ lồng nó trong một đoạn thơ, nếu dưới thế gian này có một khối thủy tinh đủ tinh khiết để chứa giọt nước mắt này, kỷ niệm này, cái tên này!

Nguyên tác  Graziella
Tác giả  ALPHONSE DE LAMARTINE  (1790-1869)
ÐOÀN VĂN KHANH dịch
theo
nguyên văn tiếng Pháp

No comments:

Post a Comment