Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Wednesday, February 20, 2013

Tìm Một Niềm Tin [5]

Ký sự Tùy bút 

5.-TRÊN BƯỚC ÐƯỜNG ÐI TÌM KỶ NIỆM

Nếu như mười năm qua tại Bình định, tôi chỉ nhìn thấy toàn những sự tàn phá làm tiêu hủy đi những công trình xây dựng của những đời trước thì khi trở lại thành phố Huế, tôi thấy nơi đây mọi cái hình như vẫn còn nguyên vẹn. Này là cầu Trường Tiền với những nhịp cầu vòng sơn màu trắng bạc, đối lại là cây cầu Bạch hổ của con đường xe lửa với những nhịp cầu sắt hình thang sơn đen nằm xa xa về mạn thượng lưu. Giòng sông Hương trong xanh và phẳng lặng với những con đò có mui giữa khoang vẫn lơ lửng như đợi chờ. Ngôi hoàng thành với các kiến trúc cổ vẫn còn đấy và phố xá, dinh thự , đền đài gần như không có gì thay đổi. Ðiều này gợi tôi nhớ đến căn nhà nằm bên bờ sông An cựu gần cầu Lò rèn nơi tôi đã sống thời thơ ấu và tôi nảy ra ý định muốn đi tìm xem lại. 

Lẽ ra từ chỗ tôi ở trọ trong thành nội có thể đi xe buýt về trạm chính Ðông Ba rồi sang xe để về An Cựu hay Bến Ngự, nhưng vì chưa quen đường xe buýt, lại nữa tôi đang thừa thì giờ và cũng muốn ngắm cảnh ngắm người nên tôi cứ từ từ mà thả bộ.

Nếu khu tả ngạn là khu thuần túy của người Việt, với hoàng thành cổ kính, chợ Ðông ba đông đúc với những con đò luôn tấp nập dưới bến, nhà cửa phố xá có vẻ chen chúc, thì ngược lại khu hữu ngạn là khu phố Tây, với thương xá Morin, những công thự to lớn, các trại lính, đường sá rộng rãi hơn, và nhà cửa phần nhiều được thiết kế theo kiểu biệt thự có vườn. Ðây cũng là khu tập trung các trường học lớn, các cơ sở tôn giáo. Ngoại trừ một số công thự đã được chuyển thành cơ quan Chính quyền Quốc gia còn các khu như Morin, toà Khâm sứ cũ và mấy doanh trại lính vẫn còn thuộc Pháp với lá cờ tam tài vẫn còn ngạo nghễ bay và những anh chàng "lê dương săng đá" hoặc mấy anh chàng "Xê-nê-ga-le gạch mặt" vẫn còn canh gác hay đi lại xí xô xí xào. Tuy nhiên bây giờ đã về sống bên đây thì tất nhiên tôi cũng phải làm quen dần với cái cảnh "ông Tây cũng là bạn ta" nên Tây làm gì kệ hắn, còn đường ta, ta cứ đi. 

Ði hết khu Morin, nơi ăn chơi mua sắm của những anh chàng lính Tây, tôi lần đường qua sở Bưu điện, trường Lycée francais, đến ngã sáu nhà hàng Chaffanjon, qua khu trường học Providence và lần đến khu nhà máy điện nằm bên này bờ sông An cựu. Tất cả vẫn còn y như xưa, chỉ riêng có cây cầu Lò Rèn thì đã bị giật sập không biết từ hồi nào. Tôi phân vân tự hỏi phải chăng trong cái thế giới này vẫn có những cái trùng hợp ngẫu nhiên nào đó mà con người không thể giải thích được. Ừ nhỉ! tại sao bao nhiêu cái khác ở thành phố này hầu như vẫn không có gì suy suyển, chỉ riêng có cây cầu gắn liền với kỷ niệm và nối đường về của tôi đi tìm thăm căn nhà cũ thì lại không còn. 

Từ bên này bờ sông ngó qua, tôi thấy dãy nhà ba căn ở góc đường bên kia bờ sông vẫn còn đó và vẫn thấp thoáng có bóng người ở. Mười năm trước đây tôi đã từng sống trong căn nhà đó, có cha mẹ tôi, em gái tôi và cả thằng em trai mới sinh ra đời, nhưng hôm nay chỉ còn lại mình tôi lần mò về chốn cũ để mà xót xa cho những tang thương biến đổi. Chắc chắn là những người hiện đang sống trong căn nhà đó lúc ấy cũng không ngờ bên kia bờ sông đang có một tên thiếu niên thờ thẫn đứng nhìn qua bên này để nuối tiếc tìm về những hình bóng xa xưa không bao giờ thấy nữa. 

Vì biết tại Huế này vẫn còn nhiều bạn bè cũ của cha tôi nhưng tôi chưa biết dò hỏi ai nên những lần thả bộ rong đó đây tôi thường chú ý nhìn người qua lại để may ra có tình cờ nhận ra khuôn mặt nào quen thuộc không. Chính nhờ thế mà hôm nay lúc từ cầu Lò Rèn trở về, khi đi ngang qua nha Thông Tin nằm trên đường Trần Hưng Ðạo ngay trước bùng binh cầu Trường Tiền, tôi chợt thấy một người đàn ông dáng quen quen đang cỡi chiếc xe đạp dura - loại xe đạp sang vào thời ấy - từ cổng phía bên đi ra. Nhìn kỹ tôi nhận ra ngay là bác Tâm liền mừng rỡ gọi lớn lên. Bác Tâm nghe tiếng gọi cũng dừng lại. Thế là bác cháu cùng vui vẻ nhận nhau rối rít. 

Sau vài lời trao đổi về sự tình, bác Tâm liền đèo tôi bằng xe đạp về nhà bác. Thì ra nhà bác Tâm cũng ở Phủ cam, gần nhà ông Cẩn. Nhà bác là một căn nhà gạch nhỏ mới xây nằm bên mạn thấp của con đường đất nhỏ chạy ngang dốc phía trước nhà thờ dẫn vào xóm. Sau vườn nhà bác là con đường xe lửa. Bên kia đường xe lửa lại là khu vườn nhà ông Cẩn. Thấy bác Tâm về có dẫn tôi theo, bác gái đang ngồi đan áo ngước nhìn tôi, mới đầu hơi có vẻ ngạc nhiên nhưng sau khi nghe bác trai giới thiệu, bác gái đã tỏ ra thương mến tôi ngay như thể con cháu quen thuộc trong nhà. 

Tôi đã gặp lại thằng Lâm và con Ái. Thằng Lâm bây giờ đang học lớp quatrième trường Providence, còn con Ái, hồi ở Bồng sơn còn bé tí chưa biết đánh vần, vẫn bị tôi coi là con nít để lên giọng bắt nạt thì nay cũng vừa lên trung học và đang học sixième trường Jeanne d'Arc. Cảnh thì đang đi tu ở dòng Chúa Cứu Thế nên tôi chưa gặp. Thế là chúng nó đứa đã học cao hơn tôi, đứa xấp xỉ tôi và tất nhiên còn giỏi hơn tôi về tiếng Pháp là cái chắc. Ðiều này khiến cho tôi hơi mang tí mặc cảm. Nhưng cũng may, hình như chẳng ai trong chúng tôi lấy đó làm điều hơn thua nên chỉ qua một thoáng bỡ ngỡ ban đầu, tất cả chúng tôi đã tìm lại được niềm vui vẻ hồn nhiên như xưa.

Kể ra thì nhà bác Tâm cũng không lấy gì làm rộng, bác lại đông con , vì sau mấy đứa tôi đã biết từ hồi ở Bồng sơn, bây giờ còn có thêm mấy đứa em nhỏ nữa, nhưng vì biết tôi dù sao ở với người thân vẫn hơn, nên ngay chiều hôm đó bác Tâm đã chở tôi qua thưa với ông bà người Quảng để tôi về ở với bác, đồng thời cũng để nhờ hai ông bà Quảng hôm nào chú Nghĩa có trở lại tìm tôi thì báo cho chú biết chỗ tôi ở để liên lạc. Thế là tôi thu xếp đồ đạc, vỏn vẹn mấy bộ quần áo, đến ở với gia đình bác Tâm. 

Nhờ gặp được bác Tâm nên bỗng nhiên tôi như cũng đã tìm thấy được một chút cái không khí ngày xưa ở Bồng sơn khi cha tôi đã đưa anh em tôi gia nhập vào đại gia đình ông bà cụ Cẩm, thân sinh của bác Tâm. Và cũng nhờ gặp bác Tâm mà tôi bắt đầu biết được tin tức về các chú bác bạn cũ của cha tôi. Chú Cọp hiện đang sống ở Sài gòn. Bác Ðàm, bạn đồng nghiệp và bạn Hướng đạo của cha tôi từ thời ở Thanh hoá rồi vào Huế, rồi lại cùng đi tri huyện một lượt với cha tôi, nay đang là Tỉnh trưởng tỉnh Quảng trị. Mấy đứa con bác Ðàm trạc tuổi tôi thời ấy hiện nay cũng đang đi học tại Huế. 

Vì chú Cọp ở tận trong Sài gòn nên tôi chưa vội hỏi thăm, nhưng khi nghe thằng Lâm cho biết là Sơn, con bác Ðàm học chung với nó, tôi đã nặn óc viết một lá thư thăm bác nhờ Lâm trao ngay cho nó để đưa lại cho bác Ðàm. Thư tôi gửi cho bác Ðàm được Lâm giao cho Sơn nhằm ngày học cuối trước dịp nghỉ lễ Các Thánh, nhờ thế mà qua hôm sau bác về Huế để đón mấy con bác đang theo học ở đây ra Quảng Trị ở chơi với bác mấy ngày nghỉ lễ, bác đã nhận được thư tôi ngay. Thế là sau khi đọc xong thư, bác đã đến nhà bác Tâm tìm tôi. 

Tuy xa cách đã lâu ngày nhưng tôi thấy bác cũng không có gì thay đổi so với những bức ảnh chụp chung với cha tôi trước đây, ngoài cái việc bây giờ bác trông có vẻ đường bệ hơn và đi bằng công xa sang trọng có tài xế lái. Bác ân cần hỏi han tôi một hồi về những biến cố đã xảy ra cho gia đình tôi. Tiếp đó bác còn khen tôi viết thư hay và có khả năng viết văn, lại còn khuyên tôi sau này cũng nên viết lách góp mặt với đời, nhưng hãy đợi khi nào thật chín chắn đã rồi hãy viết. Về chuyện này tôi xin mở ngoặc để ghi ngay một điều là không biết vì tôi không dám tin lời bác khen mình hoặc tại vì quá tuân thủ nghiêm minh lời khuyên của bác mà từ đó cho đến ngày Miền Nam sụp đổ, trên thị trường chữ nghĩa Miền Nam chưa bao giờ có ai đọc thấy tên tôi ký dưới một bài văn hay một bài thơ, dù chỉ là xuất hiện trong một đặc san cỡ trường Trung học, trong khi ấy, suốt mấy mươi năm tôi cũng đã có đôi lần được vài tên bạn rủ làm văn viết báo.

Sau một hồi trò chuyện, bác quay qua nói với bác Tâm hãy để cho tôi đi theo bác. Tôi thấy mình vừa mới tìm thấy chút không khí quen thuộc nơi đây thì chưa chi lại có thay đổi nên còn phân vân, nhưng thấy bác giục và nể bác nên tôi đành từ giã bác Tâm để theo bác ra xe. Bác đưa tôi ghé lại căn biệt thự riêng của bác ở gần dòng Chúa Cứu thế và giới thiệu tôi cho mấy đứa con của bác đang chờ bác về để cùng đi ra Quảng Trị. Tôi ngượng ngùng nhìn chúng vì tôi chưa nhận ra nét quen thuộc nào nơi chúng cả và chúng cũng bỡ ngỡ nhìn tôi như chưa hề bao giờ biết tôi trong đời. Chính vì thế mà khi mới gặp bác Ðàm, tôi vui vẻ và tự nhiên bao nhiêu thì bây giờ gặp mấy đứa con bác, tôi lại thấy mình ngượng ngùng lúng túng bấy nhiêu. 

Thật ra thì ngày nhỏ chúng với tôi cũng đã từng có dịp gặp nhau và chơi chung lúc cả hai gia đình còn ở Huế, nhưng bây giờ sau mười năm xa cách tôi cũng không hình dung được chúng lớn như thế nào rồi, còn chúng thì hình như không hề nhận ra tôi và hình như cũng chẳng còn lưu giữ một tí kỷ niệm nào về tôi cả. Trong cái độ tuổi mỗi ngày mỗi lớn, mỗi thay đổi, lại sống trong hai môi trường và hai hoàn cảnh khác nhau, có lẽ chỉ có tôi vì thấy mình cứ mỗi ngày lại thêm một mất mát nên thường có khuynh hướng tìm về kỷ niệm cho nên vẫn còn nghĩ về chúng, còn chúng vẫn sống trong một môi trường yên vui, càng ngày càng thăng tiến với những điều mới lạ mang đến cho mỗi năm một tuổi thì cái việc quên bẵng đi vài cái hình ảnh ngày xưa còn bé bỏng cũng là thường tình thôi. Cũng vì thế mà lúc ngồi trên xe từ Huế ra Quảng trị, tôi chẳng biết chuyện gì để nói ngoài việc trả lời những câu hỏi của bác Ðàm và nhìn ngắm cảnh vật hai bên đường. 

Ra khỏi thành phố Huế thì cảnh trí cũng trở nên khô cằn với những vùng cát trắng. Tại một đoạn tôi bỗng bắt gặp bên con đường sắt chạy song song với quốc lộ một số toa xe lửa bị cháy lật nằm nghiêng ngả từ hồi nào vẫn chưa được dọn dẹp, có lẽ dấu tích còn sót lại của một lần xe lửa bị trúng mìn lúc còn chiến tranh. Cái hình ảnh đoàn tàu đổ nát nằm ngả nghiêng như thế này chỉ gợi lên cho tôi những cảm nghĩ không vui. Do đó mà tôi bỗng có cảm giác như cái vẻ bình yên tôi đang sống hôm nay cũng chỉ là một cái gì đó mong manh như sương khói chiều hôm. 

Tới Quảng trị thì cũng là lúc trời vừa tối, tuy nhiên tôi cũng nhận ra thành phố này cũng nhỏ hẹp, và phố xá còn thua kém hơn cả phố xá ở Hội an. Cả thành phố hình như chỉ có dinh Tỉnh trưởng là có vẻ đồ sộ nhất mà thôi. Bác Ðàm đưa tôi trình diện bác gái và giới thiệu cho tôi biết mấy con nhỏ của bác sống ở đây. Bọn chúng trố mắt nhìn tôi ngơ ngác và tôi thì cũng ngượng nghịu với cái vẻ còn mang tính chất mán rừng về phố phường của mình nên không biết nói gì hay làm gì. Ngay cả đối với bác gái tôi vẫn còn lưu giữ nhiều ấn tượng đẹp trong những kỷ niệm liên quan đến mẹ tôi nhưng bây giờ gặp lại, tôi thấy bác có vẻ điềm đạm ít nói khiến cho tôi cũng không mấy tự nhiên. 

Tối hôm đó tại phòng ăn, cả nhà quây quần quanh chiếc bàn lớn và dài có trải khăn để ăn tối. Bữa ăn dọn lên theo lối tây, có đầy đủ khăn ăn, muổng nỉa ly tách và có người hầu bàn lần lượt bưng dọn từng món ăn một. Cả nhà vừa ăn vừa nói chuyện vui vẻ và bác Ðàm vẫn ân cần hỏi han tôi nhưng tôi lại cảm thấy như vẫn có chút gì lạc lõng giống như hôm ngồi ăn cơm tối trong dinh tỉnh trưởng Quảng nam. Cũng vì thế mà tuy bữa ăn có nhiều món lạ, và có nguyên cả con heo sữa quay mà bác Ðàm bảo là để ăn mừng đứa con thất lạc tức là tôi nay đã trở về, nhưng tôi ăn chẳng ngon tí nào cả. Tôi lại thấy nhớ những tô bún bò Huế hay ổ bánh mì thịt của các gánh hàng rong mà bác Tâm gái vẫn hay mua cho tôi ăn sáng, tuy thật bình dị, nhưng cũng dễ ấm lòng. 

Ngày hôm sau bác đưa cả gia đình đi xem lễ ở nhà thờ La Vang, nằm về phía tây quốc lộ 1 cách tỉnh lỵ cũng không xa lắm. Chiến tranh vừa mới chấm dứt, nên con đường từ quốc lộ đến La vang còn mang dấu vết lồi lõm của những lần Việt Minh phục kích đặt mìn. Nhà thờ cũng còn thưa thớt và chưa được sửa sang vì lúc ấy chưa có những đoàn hành hương đông đảo như sau này. Những ngày ở Bình định tôi cũng đã từng nghe nhiều người công giáo mơ ước có một lần được hành hương về nơi Ðức Mẹ đã có lần hiện ra giúp đỡ những người khốn khó để dâng lên một lời cầu khẩn, nay bỗng nhiên tôi lại được cái may mắn đến viếng nơi mà nhiều người hằng mong ước, tuy nhiên tôi lại thấy những gì tôi đã mất mát trong đời sẽ không bao giờ có thể tìm lại, và điều tôi mơ ước cho mai sau thì hình như tôi cũng chưa thể hình dung nó là cái gì ở đâu và như thế nào, nên lời cầu nguyện của tôi hôm ấy chỉ là xin cho tôi tìm thấy một sự bằng an cho tâm hồn trong cuộc đời vẫn chưa ngừng biển động.

Qua mấy ngày sống ở Quảng Trị với bác Ðàm, lúc ở trong dinh thì cứ phải gò bó mình theo phong cách lễ nghi cho đúng tôn ti xã hội, còn lúc ra chơi phố thì nhìn cái phố xá nghèo nàn nhỏ bé tôi lại nhớ đến cái huyện lỵ Phù cát buồn nản ngày xưa nên lúc nào cũng thấy mình bứt rứt không yên. Thêm vào đó khi nghe bác Ðàm lại có ý khuyên tôi cứ ở đây với bác một thời gian cho quen với nếp sinh hoạt mới của xã hội bên đây rồi bác tìm cho một việc làm để ổn định cuộc sống, sau đó thừa thì giờ thì đọc sách đọc báo để mở mang thêm kiến thức cũng được, vì bác cho là tôi gặp quá nhiều biến cố đau thương, lại bị gián đoạn học hành mấy năm nay nên có thể không còn tinh thần để tiếp tục học hành một cách có hiệu quả như một học sinh thông thường.

Ngày mới ra tới Hội An, nhìn thấy cái cung cách còn mang đầy màu sắc phong kiến của xã hội bên này không còn phù hợp với mình, tôi đã nảy ra cái ý định làm một con người bình thường và quên đi cái lý lịch quá khứ của mình, nhưng rồi sự xuất hiện của chú Nghĩa đã lôi tôi về với thực tại không thể chối bỏ. Tôi lại nhớ cha tôi trước khi phải nằm xuống vì những viên đạn của những con người đang nhân danh phục vụ cho Tổ quốc và Dân tộc để vong thân cho một chủ nghĩa không tưởng, lời trăn trối của người là dù trong hoàn cảnh nào tôi cũng nên cố gắng học hành. Bây giờ tôi đang có cơ hội thuận tiện, lại còn có ông Cẩn đã nói sẽ lo cho tôi được học hành tới nơi tới chốn, tôi thấy mình hình như cũng chưa cam lòng với cuộc sống bình lặng ở một cái tỉnh lẻ nhỏ bé buồn nản này. Chính vì thế mà khi đã hết kỳ nghỉ lễ và thấy mấy người con bác Ðàm sửa soạn để trở về Huế đi học lại, tôi cũng đã nài xin bác cho tôi được trở về Huế.

Bác Ðàm có lẽ cũng thông cảm niềm u uẩn của tôi nên không nói gì, và trước khi ra xe rời Quảng Trị, bác lấy ra ba ngàn đồng đưa cho tôi bảo cầm về nhờ bác Tâm sắm sửa cho để đi học. Thế là chiều hôm đó, tôi lại bùi ngùi từ giã bác Ðàm để cùng đi với các con bác vô Huế và trở về lại nhà bác Tâm. 

ĐOÀN VĂN KHANH

No comments:

Post a Comment