Ngày tôi còn trẻ, có một ông
bạn thấy tôi chỉ biết đứng cạnh gốc cây si bến đò nhìn mấy nụ hồng xách gói sang
sông rồi ngẩn tò te, liền bảo tôi: "Bạn cứ việc yên chí mà cưới vợ đi, vì lỡ nếu
bạn không hạnh phúc thì bạn cũng sẽ trở thành một triết gia". Ông bạn còn bảo
đây là lời khuyên của một triết gia chính hiệu nên tôi đã tin theo. Sau đó thì
tôi bắt đầu thấy là tôi rất muốn tìm cho ra cái ông triết gia đã đưa ra cái ý
tưởng này để học hỏi thêm, nhưng tìm mãi mà không gặp, đành chỉ biết ngồi tự
mình suy gẫm lẩm cẩm về chuyện mấy ông triết gia và vấn đề hạnh phúc vậy.
Theo Sáng Thế ký trong Sấm
Truyền cũ của người Do Thái thì vũ trụ này là do Thượng đế sáng tạo nên và sau
khi Thượng đế tạo dựng ra quả đất này với đầy đủ núi sông cây cỏ cầm thú cho tới
giun dế, Thượng đế bỗng thấy công trình của mình chưa trọn vẹn nên mới lấy bùn
nặn ra một hình tượng giống mình và hà hơi vào để ban cho cái hình tượng ấy sự
sống, rồi gọi đó là con người và đặt tên cho là A-dong để thay mình cai quản quả
đất này.
Thấy A-dong trơ vơ có một mình
thì không biết là mình đang hạnh phúc nên Thượng đế mới làm cho A-dong ngủ say
rồi rút bớt của A-dong một mẩu xương sườn và dùng nó để nắn thành một người nữ
mà Thượng đế đặt tên cho là E-và. Khi A-dong thức dậy thì cảm thấy mình bỗng như
thiếu thốn đi một cái gì đó. Bấy giờ Thượng đế mới hiện ra dẫn theo E-và và bảo
với A-dong rằng Thượng đế đã tạm mượn của A-dong một mẩu xương sườn để nặn thành
cái hình hài này, bây giờ Thượng đế đem trả lại cho A-dong để cho ông ta được
trở lại toàn vẹn như trước hầu thấy được hạnh phúc. Thế là A-dong ôm lấy E-và
như là một phần bản thân của chính mình, nhưng vì không được Thượng đế chỉ cách
làm cho E-và trở thành mẩu xương sườn trong người như cũ nên chỉ biết để cho E-và
đeo theo bên cạnh mình từ đó.
Vì muốn cho A-dong và E-và lúc
nào cũng hạnh phúc, Thượng đế đã cho hai người được sống tại một nơi đầy đủ mọi
thứ cho nhu cầu của con người mà Thượng đế gọi là vườn Ðịa đàng. A-dong và E-và
suốt ngày chỉ việc rong chơi và ăn uống tùy thích, duy có một cái cây ngay giữa
vườn sum sê đầy trái đẹp đẽ mà Thượng đế gọi là cây "hiểu biết" thì Thượng đế
lại cấm A-dong và E-và không được ăn. Chính vì bị cấm ăn trái cây ấy nên mặc dù
A-dong và E-và sống trong hạnh phúc nhưng lại chẳng hiểu biết là mình đang hạnh
phúc.
Bấy giờ Lu-xi-phe là tên cầm
đầu đám thiên thần phản bội Thượng đế trước đây nên bị Thượng đế phạt sa xuống
Hỏa ngục, nay thấy Thượng đế dựng nên quả đất này cho loài người, lại còn ban
hồng ân riêng cho con người được hưởng thì ganh tức bèn một hôm hiện hình thành
con rắn quấn trên cây "hiểu biết" chờ E-và đi qua thì đưa lời cám dỗ.
Nghe rắn nói ăn quả cấm này thì
con người cũng sẽ hiểu biết và trở thành ngang hàng với Thượng đế nên E-và không
ngần ngại hái một quả ăn thử, lại còn đưa cho A-dong cắn một miếng. A-dong vừa
nuốt chưa trôi khỏi cổ thì sực nhớ lời Thượng đế dặn nên ngưng lại. Phiền một
nỗi là miếng trái cấm ấy bây giờ cứ nằm nghẹn trong cổ, khạc chẳng ra cho mà
nuốt cũng chẳng vào, tuy nhiên cái chất của trái cây ấy thì cứ từ từ mà ngấm vào
bao tử ruột gan để biến A-dong cũng dần dần hiểu biết lờ mờ rằng nếu mình không
dại dột nghe lời E-và ăn trái cấm thì đâu có mắc nghẹn như thế này, nhưng chuyện
đã lỡ rồi không làm sao cứu vãn được nữa.
Thượng đế thấy A-dong và E-và
không tuân lời dạy của mình nên hiện ra và giận dữ phán rằng từ nay A-dong phải
lao động "đổ mồ hôi sôi nước mắt" thì mới có cái mà ăn, còn E-và thì phải sinh
con đẻ cái để cho giòng giống người được sinh sôi nẩy nở ra cho đầy mặt đất này
như ý Thượng đế muốn, nhưng E-và phải chịu cảnh "mang nặng đẻ đau" để trả giá
cho cái hạnh phúc mà con người muốn có. Sau đó Thượng đế đuổi cả hai ra khỏi
vườn Ðịa đàng. Thế là kể từ khi con người nhờ ăn trái "hiểu biết" nên có được
một bộ óc biết suy nghĩ thì cái điều đầu tiên mà con người nhận thức ra được
chính là con người cần hạnh phúc.
Sau khi A-dong và E-và dắt díu
nhau đi ra khỏi vườn Ðịa đàng để làm lại cuộc đời với hai bàn tay trắng và một
bộ óc có sự hiểu biết nhưng hạnh phúc thì đã bị Thượng đế giữ lại, rồi con cái
cháu chắt của A-dong và E-và thi đua nối đuôi nhau mà ra đời theo đúng lời
nguyền của Thượng đế cho đông "như sao trên trời như cát dưới biển", nhưng quả
đất thì lại không nở thêm ra mà chỉ cằn cỗi đi, cho nên cuộc sống càng ngày càng
vất vả hơn khiến cho ngôn ngữ của con người cũng càng ngày càng trở nên phong
phú để diễn đạt cái nỗi khốn khó đó. Rồi cũng do những suy nghĩ về những cái vụn
vặt đó mà triết gia bắt đầu xuất hiện. Nhưng triết gia là người như thế nào?
Thật ra tôi cũng không biết triết gia là người như thế nào nhưng theo như sự suy
nghĩ nông cạn của tôi thì để cho tiện, chúng ta cứ coi triết gia như là người ao
ước sự hạnh phúc và chỉ cho người khác con đường đi tìm hạnh phúc.
Thông thường thì con người tìm
kiếm hạnh phúc trong sự làm sao thoả mãn được các nhu cầu của mình. Mà nhu cầu
của con người thì chẳng qua cũng chỉ xoay quanh cái khoản ăn để sống và tòm tem
để bảo tồn chủng loại. Nhưng nếu chỉ biết có ăn no rồi tòm tem khi cần theo bản
năng thì cũng chẳng khác gì loài vật. Do đó mà con người vì biết suy nghĩ nên
mới chế ra không biết bao nhiêu cái rắc rối xoay quanh mấy việc rất đơn giản này
để cho rằng mình cao cả hơn các loài sinh vật khác.
Về cái mục ăn thì thay vì kiếm
được cái ăn là ăn ngay, ăn thẳng, ăn sạch, ăn không cần suy nghĩ, con người lại
bày đặt tìm cách chế biến cái ăn, cũng như ấn định ra những cung cách ăn thế nào
để cho mình có được cái cảm giác là ăn ngon hơn và thấy đó là hạnh phúc. Riêng
về cái mục tòm tem để bảo tồn chủng loại thì con người vì biết suy nghĩ nên cũng
đã tạo ra cho mình không biết bao nhiêu là chuyện gò bó nhiêu khê phiền toái đối
với một cái công việc cũng rất bình thường này để tỏ ra loài người có khác hơn
loài vật, vì loài người có văn hóa.
Vào cái thời mà Tây, Tàu, Nhật
lố nhố còn đua nhau làm mưa làm gió ở giải đất hình chữ S thì có mấy ông triết
gia nghiệp dư của dân ta bỗng nảy ra cái sáng kiến đề ra một cái tiêu chuẩn hạnh
phúc hợp lưu hổ lốn như sau: "Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật, đưa đám Việt
Nam". Chả là các vị ấy cho rằng ăn cơm Tàu thì vừa béo vừa bổ, ở nhà Tây thì vừa
rộng vừa mát, lấy vợ Nhật thì khỏi sợ bị vợ ăn hiếp, và đưa đám Việt Nam thì vừa
rình rang vừa được thiên hạ khóc thương nhỏ nước mắt cá sấu ngập lai láng cả
biển Ðông.
Ở đây tôi xin tạm gác bỏ cái
hạnh phúc trong các mục ăn, ở và chết vì nó cao siêu quá, và nó lại là những vấn
đề lớn của những triết gia tên tuổi có bộ óc vĩ đại và tư tưởng kinh bang tế thế
nên tôi không dám đụng đến mà chỉ nói tới cái mục hạnh phúc trong phạm vi làng
nhàng thôi, vì cái này ai cũng bàn được và nhất là ai cũng có thể là triết gia
loại này được.
Mặc dù vào thời xa xưa các cụ
nhà ta chưa được ánh sáng Phúc Âm rọi đến nhưng cứ theo Sáng Thế ký thì tất cả
các dân tộc trên quả đất này cho dù có là da trắng, da vàng, da đỏ, da đen,
người nước này hay là người nước khác thì họ cũng có chung một nguồn gốc tổ tiên
là ông A-dong và bà E-và. Chính vì thế mà ngay trước khi mấy ông cố đạo đem tin
mừng đến rao giảng cho dân da vàng thì các cụ nhà ta cũng đã được Thượng Ðế mặc
khải cho biết là chỉ có người nam mới thực là người có nhân vị, còn người nữ chỉ
là khúc xương sườn của người nam thôi. Ðiều này đã được các cụ nhà Nho nói ra
thành câu: "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô". Trong ca dao, tục ngữ, thành
ngữ của ta cũng có những câu đại loại nói lên cái nhận định đó:
Con gái là con người ta
Con dâu mới thực mẹ cha rước về
Dâu là con, rể là khách, v. v... và v. v...
Riêng về cái mục tìm hạnh phúc
trong sự kết hợp cái mẩu xương sườn thất lạc của mình thì vào đời A-dong là do
Thượng đế ban cho E-và được nắn ra từ chính mẩu xương sườn của mình cho nên dù
có bị E-và dụ cho ăn trái cấm mà bị Chúa phạt, A-dong cũng chỉ đành đấm ngực mà
than "lỗi tại tôi mọi đàng", bởi vì dù sao thì E-và vẫn đích thực là phân nửa
bản thân mình. Tuy nhiên kể từ đời con cháu A-dong trở đi thì vấn đề không còn
đơn giản nữa, vì sau khi hoàn thành hai tác phẩm A-dong và E-và thì Thượng đế
không còn hứng thú nắn hình tượng nữa mà ủy thác công việc này cho đám Mụ bà đảm
nhận với chỉ thị mỗi khi nắn ra một hình tượng con trai nào đó trong bụng một bà
mẹ thì phải rút bớt ra một mẩu xương sườn để sau đó sẽ nắn thành một đứa con gái
trong bụng một bà mẹ khác.
Chính vì thế mà con cháu của
A-dong về sau một khi qua khỏi giấc ngủ ngu muội của tuổi thơ ngây để thức dậy
thành người lớn thì đều thấy mình như có một cái gì trống vắng trong tâm hồn.
Ðối với con trai thì đây chính là sự biểu hiện của trạng thái ý thức về sự thiếu
mất cái đốt xương sườn nên cần phải đi tìm lại cho mình cái mẩu xương sườn thất
lạc ấy để cho mình thấy hạnh phúc. Còn con gái thì một khi môi bắt đầu hồng và
má thắm lên là cũng bắt đầu rạo rực mong ngóng sao cho cố chủ sớm biết đường tìm
đến rước về để không đến nỗi thấy mình có ngày trở thành một mẩu xương sườn mốc
thếch bị bỏ quên trên thế gian này.
Vì đám Mụ bà vốn phải làm cái
công việc này từ thời chưa có phương pháp khoa học nên khi nắn xong một hình
tượng nam thì chỉ biết rút ra một mẩu xương sườn rồi bỏ bừa ra đó chứ không hề
đánh dấu mẩu xương sườn nào là của đứa con trai nào, nên sau này khi thành người,
đám con trai không biết đứa con gái nào là từ mẩu xương sườn của mình, cũng như
bọn con gái cũng không biết mình là mẩu xương sườn của ai. Chính vì thế mà khi
bắt đầu biết đi tìm đến với nhau thì con trai hay con gái cũng chỉ còn có mỗi
một cách là lựa xem ả nào vừa mắt hay anh chàng nào vừa ý là cho rằng của mình
thế thôi, như trong ca dao:
Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân
Vào thời xa xưa, khi mà trình
độ văn minh còn thấp kém thì ở xứ nào người ta cũng chỉ đi tìm cái mẩu xương
sườn thất lạc này tại chỗ mình sinh ra và lớn lên. Bên ta cũng thế. Khi mà dân
ta chỉ biết quanh quẩn với cái lũy tre xanh, cây đa đầu làng, thì mấy mẩu xương
sườn thất lạc thường cũng được coi như nằm bên nhà hàng xóm hoặc loanh quanh đâu
đó đầu làng cuối ngõ, cùng lắm là lạc qua làng bên cạnh, cách một con sông phải
qua một chuyến đò ngang là cùng. Dần dần nhờ phương tiện giao thông tiến bộ mà
những mẩu xương sườn thất lạc này được coi như có thể vương vãi ra xa hơn, có
thể là khác miền, khác xứ, có khi xa cách cả đại dương. Ngoài ra do phong thổ
của nơi mảnh xương sườn này lạc vào mà khiến cho màu sắc của mẩu xương sườn cũng
có khi biến đổi như trắng thêm ra hoặc đen hơn lên chẳng hạn, đôi khi trông
chẳng còn chút gì là đồng nhất với kẻ được coi như là cố chủ của nó nữa.
Thông thường thì những mẩu
xương sườn nào trông tươi mát dĩ nhiên là sẽ được lắm kẻ ngắm nghía cho nên mới
xảy ra hiện tượng tranh giành nhau giữa đám mày râu. Cái sự tranh giành này có
khi chỉ là nhẹ nhàng vì bên thua tự nguyện bỏ đi, nhưng cũng có lúc gay cấn dữ
dội nếu không bên nào chịu nhường bên nào, đi đến chỗ bạo động, đấu dao đấu súng
hoặc có khi còn xảy ra chiến tranh đổ máu, gây hệ lụy cho dân cả nước. Huyền
thoại của ta chẳng đã có câu truyện Sơn Tinh và Thủy Tinh chỉ vì tranh nhau mẩu
xương sườn Mị nương bên nhà vua Hùng, nhưng vì Sơn Tinh nhanh chân chiếm được Mị
nương đem về núi mà Thủy Tinh tức giận đem lâu la gây chiến với Sơn Tinh rồi hai
ông thần cứ thế mà đánh phá nhau chí choé gây lụt lội, sông bồi núi lở, hết năm
này qua năm khác, gây đau khổ cho muôn dân.
Ðôi khi lại có trường hợp không
tìm mà gặp như anh chàng Chử Ðồng tử. Huyền thoại này kể rằng anh chàng Chử Ðồng
tử nghèo đến nỗi không có được lấy cái khố thì làm sao dám mơ tưởng đi tìm kiếm
mẩu xương sườn thất lạc của mình. Ấy thế mà lại có một mẩu xương sườn của ai
không rõ nhưng được nắn làm công chúa con vua Hùng, một hôm tự nhiên nổi hứng ra
sông tắm đúng lúc anh chàng Chử Ðồng tử đang xúc tép ở đó. Thấy công chúa, Chử
Ðồng tử sợ quá bèn chui dưới cát trốn không ngờ công chúa đạp phải bèn dựng anh
chàng dậy. Sau đó công chúa khăng khăng cho rằng mình chính là mẩu xương sườn
của anh ta. Còn anh chàng Chử Ðồng tử thì bỗng dưng khỏi phải nhọc công tìm kiếm
gì cả mà cũng được.
Tuy vậy cũng có những trường
hợp oái oăm như trong huyền thoại Trương Chi Mị nương. Nàng công chúa này từ nơi
lầu cao gác tía nghe tiếng hát của anh lái đò Trương Chi ở dưới bến sông vẳng
lên sao mà tha thiết quá nên cứ ngỡ như mình là mẩu xương sườn của anh ta bèn
nằng nặc đòi vua cha phải cho "châu về Hợp phố". Thế nhưng đến lúc vua cha cho
đòi anh chàng Trương Chi bằng xương bằng thịt đến trình diện thì Mị nương lại
không thể nào tin được mình lại được nắn ra từ mẩu xương sườn của cái anh chàng
xấu xí dị hợm này bèn tuyên bố xù luôn. Báo hại anh chàng Trương Chi đành phải
ôm mối hận tình mà chết.
Bình thường thì trong việc đi tìm mẩu xương sườn thất lạc này người ta cũng chỉ
tìm lựa các mẩu xương sườn đã đến thời kỳ xuân tươi khoe sắc phơi phới đang nhởn
nhơ trên mọi nẻo đường, thế nhưng cũng có người cẩn thận hơn, nhắm nhía nó ngay
từ khi chưa thành hình:
Sao rua chín cái nằm ngang
Thương em từ thủa mẹ mang trong lòng
Sao rua chín cái nằm chồng
Thương em từ thủa mẹ bồng mát tay
Sao rua chín cái nằm ngay
Thương em từ thủa cho vay nụ cười
Ấy thế đấy mà rồi nhiều khi còn
chưa nắm chắc được cái mẩu xương sườn ấy là của mình chỉ vì mẩu xương sườn này
lại thấy mình là một phần của một chàng trai nào khác kia:
Sao rua chín cái nằm kề
Thương em từ thủa mẹ về với cha
Sao rua chín cái nằm xa
Vắng em từ thủa kẻ ra người vào
Bây giờ trời lặng hết sao
Nhớ em anh biết nơi nào tìm em...
Ngoài ra, căn cứ vào luận lý học mà nhận định thì con gái là được mụ bà nắn ra
từ một mẩu xương sườn của một người con trai nào đó nghĩa là người con trai phải
được nặn ra trước, sau đó mới có chất liệu để mụ bà nặn ra người con gái cho nên
trong vấn đề châu về Hợp phố, bao giờ mẩu xương sườn cũng phải non tuổi hơn chủ
của nó thì mới hợp lý. Thế nhưng đôi khi cũng xảy ra vài trường hợp lầm lẫn hay
sao đó mà có người lại rước về một mẩu xương sườn già hơn mình nên mới bị thiên
hạ bình phẩm:
Chồng già vợ trẻ là tiên
Vợ già chồng trẻ là duyên con bò.
Dĩ nhiên là cái anh chàng này vì lý do nào đó mà phải khư khư ôm lấy mẩu xương
sườn già này chỉ còn cách triết lý vụn để chống chế miệng lưỡi thế gian còn cái
chuyện hạnh phúc hay không hạnh phúc thì chỉ có anh ta mới biết chứ người ngoài
ai mà kiểm chứng được:
Có phúc lấy được vợ già
Vừa sạch cửa nhà lại ngọt cơm canh
Vô phúc lấy phải trẻ ranh
Nó ăn nó phá tan tành nó đi
Vì con người càng ngày càng tràn lan ra khắp mặt đất thành thử cái mẩu xương
sườn thất lạc của mỗi người cũng càng văng xa thêm và lẫn lộn tùm lum khó mà tìm
kiếm cho ra cái nào đúng là của mình. Ðiều này đã khiến cho cha mẹ, họ hàng, anh
chị em, người quen đều phải ra tay tìm kiếm giúp, rồi lại còn thêm cả hàng tá
người chuyên làm nghề đi tìm kiếm này mà người ta gọi là ông mai bà mối cũng xen
vào để cho mình được hưởng cái đầu heo. Tuy đội ngũ săn lùng hùng hậu như thế mà
rồi cho dù mỗi lần nhắm nhía được một mẩu nào đó cũng có ai dám bảo đảm là mình
đã tìm ra đúng mẩu xương sườn thất lạc của chàng trai đó đâu, cho nên thế gian
mới có câu:
Cưới vợ thì cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
Ngày xưa thì bậc làm cha mẹ vẫn tự cho mình là giàu kinh nghiệm hơn nên thường giành lấy cho mình cái trách nhiệm quyết định sự lựa chọn này và con cái chỉ việc "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Ðiều này đã tạo ra không biết bao nhiêu vụ rắc rối giữa cha mẹ và con cái hoặc có khi còn đưa đến những thảm cảnh cho con cái chỉ vì sự lựa chọn của bậc làm cha mẹ và con cái nhiều khi không giống nhau hay nghịch lại nhau. Nhưng dù sao thì nhờ thế mà không biết bao nhiêu thi văn nhạc sĩ có đề tài để cảm hứng mà sáng tác thành những tác phẩm bất hủ làm cho nền văn học nghệ thuật của loài người đâm ra phong phú.
Thời nay nhờ khoa học kỹ thuật
tiến bộ tạo điều kiện cho đám con cái còn trẻ trung sung sức mới có khả năng xử
dụng các phương tiện hiện đại để chạy đua nhanh hơn và xông xáo lục lọi trước,
trong khi cha mẹ còn lớ ngớ lọt tọt đằng sau, do đó nhiều khi con cái đã tự mình
chọn xong và sắp xếp đâu vào đó cả rồi mới quay lại rước đôi bên cha mẹ cùng tới
nhà hàng ngồi cho con dâu con rể làm lễ tấn phong lên chức cha mẹ chồng hay cha
mẹ vợ, có khi còn đặc cách lên luôn cấp ông bà nội, ngoại luôn tại trận.
Có một điều gây thắc mắc không ít là nếu đúng theo nguyên tắc Thượng đế lập ra
từ thủa mới tạo ra loài người thì chỉ có một mẩu xương sườn được rút ra để tạo
thành một người nữ cho nên khi kết hợp lại là chỉ một nam một nữ thôi. Nguyên
tắc này về sau được luật pháp các xã hội văn minh tôn trọng và bảo vệ. Thế nhưng
không hiểu sao bên mấy xứ Ðông phương như ta và Tàu trước đây thường có trường
hợp một chàng trai lại rước về cho mình tới mấy mẩu xương sườn thất lạc chứ
không phải chỉ có một mà thôi. Ðiều này không biết có phải vì đám mụ Bà bên Ðông
phương ngày xưa vụng tay hay làm gãy rồi mỗi mảnh vỡ cũng được nắn riêng ra
thành hình nên mới sinh ra nhiều đứa con gái từ một mẩu xương sườn gốc khiến cho
mấy anh con trai phải đeo dăm ba cái luôn một lúc, có khi lên đến cả tá. Hiện
tượng này đã khiến cho mấy mẩu xương sườn nhiều khi phải thi thố diễn xuất những
màn gay cấn hay trổ tài rượt bắt rất hấp dẫn để chiếm cho bằng được cái độc
quyền đấm bóp cho kẻ được coi là cố chủ của mình. Còn đối với hạng hiền lành
nhẫn nhịn lắm thì cũng phải thốt lên:
Chém cha cái số lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Nhưng cũng có khi ngược lại chính chàng trai chủ nhân lại phải trả giá cho cái
sự đèo bòng đó đến nỗi phải chịu cái cảnh cám treo heo nhịn đói như:
Một vợ thì nằm giường lèo
Hai vợ thì nằm chèo queo
Ba vợ thì ra chuồng heo mà nằm
Còn nhìn chung thì ở xứ nào cũng có trường hợp một số mẩu xương sườn quái đản tự
coi như mình không hề có cố chủ nào cả nên ai muốn thử làm chủ tạm chốc lát đều
được cả với điều kiện tiền trao cháo múc sòng phẳng. Ngoài ra tưởng cũng nên kể
thêm là trước khi có mấy vị triết gia duy vật vô sản chuyên chính đứng ra hô hào
giải phóng cho mấy mẩu xương sườn vùng lên phá bỏ gông cùm của chế độ tư hữu
phong kiến và tư bản bóc lột để được tự do thao túng hạnh phúc thì thực tế xã
hội ta cũng đã từng có những mẩu xương sườn thuộc loại lai giống ngựa trời đã
từng chủ trương chính chuyên theo kiểu tự do dân chủ nguyên thủy rồi:
Chính chuyên lấy được chín chồng
Ðem bỏ vào lồng quang gánh đi chơi
Dọc đường quang đứt gánh rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.
Thông thường thì khi một anh chàng trai rước được cái mẩu xương sườn thất lạc
của mình về thì đều nghĩ rằng mình là chủ tất nhiên sẽ "phu xướng phụ tùy",
nhưng thực tế cho thấy là ngay từ hồi mới tạo thiên lập địa thì ông tổ A-dong
cũng đã bị chính mảnh xương sườn E-và của mình xúi dại rồi, con cháu làm sao
tránh khỏi vết xe đổ ấy.
Chính vì sự lựa chọn cho mình mẩu xương sườn thất lạc càng ngày càng khó khăn
phức tạp khiến cho sự nhầm lẫn càng nhiều cho nên mới có hiện tượng dị ứng xảy
ra. Hiện tượng này sẽ tùy theo tỉ lệ dị biệt về bản chất của mẩu xương sườn đối
với thân chủ mang nó và hoàn cảnh xung quanh tác động theo chiều hướng tiêu cực
hay tích cực mà xảy ra nhanh hay chậm với cường độ mạnh hay yếu khác nhau.
Trường hợp thân chủ coi như sẵn sàng cúi đầu lãnh nhận tất cả thì cứ an vui với
những thứ trời cho như:
Lỗ mũi em mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Ðêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Ði chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm
Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu...
Thế nhưng gặp những thân chủ mà đức kiên nhẫn đã mòn tới độ tuột thắng hay những
mẩu xương sườn có máu chằng tinh trong người thì hàng xóm tha hồ mà nghe:
Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.
Và để cắt nghĩa cho cái nợ tréo cẳng ngỗng này người ta bèn đổ thừa là tại ông
Tơ bà Nguyệt xe duyên lầm. Không biết ông Tơ bà Nguyệt ở đâu mà người ta cứ trút
hết tội cho như thế, quả thật là rất tội nghiệp!
Ðể ngăn ngừa cái bệnh dị ứng này mà mấy nhà đạo đức, các nhà giáo dục, các vị
lãnh đạo tôn giáo cũng như các nhà luật pháp đã chế ra không biết bao nhiêu là
tín điều, giới răn, quy ước, tập tục, luật pháp, nghi lễ phiền toái để trói buộc
hạnh phúc ở lại với những kẻ đã rước mẩu xương sườn thất lạc về với mình nhưng
số người mắc bệnh dị ứng này không hề giảm tí nào mà còn càng ngày càng có vẻ
gia tăng thêm là đàng khác. Tuy nhiên ngày xưa người ta còn biết sợ trời nên còn
nhiều người chỉ biết cắn răng chịu đựng còn ngày nay con người tin khoa học hơn
nên có khuynh hướng rứt bỏ hoặc thay thế bằng một cái khác cho khỏi phải dây dưa
ôm lấy mãi mẩu xương sườn không thích hợp ấy để mà nhức nhối kinh niên.
Cũng vì thấy cái việc đi tìm hạnh phúc trong việc gắn lại mẩu xương sườn này
thường dễ gây chứng dị ứng cho nên nhiều kẻ khôn ngoan mới khuyên bảo: "Tu là
cõi phúc, tình là giây oan". Ðiều này đã được đức Phật chỉ cho nhân loại từ mấy
ngàn năm nay rồi, và mặc dù ai cũng nghĩ lời dạy này là chí lý, nhưng cõi phúc
thì ở tận mãi đâu đâu không nhìn thấy hay vói tới nên ít ai chịu theo còn cái
giây oan thì cứ nhan nhản đầy đường đầy xá, bạ đâu cũng có thể bị quàng phải cho
nên ai nấy đều bị vướng hoài hoài. Ngay cả nhiều chàng trai đã lánh xa phàm tục
để trở thành sư thành cố mà nhiều khi cũng chưa chắc đã tránh thoát:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sự sầu
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.
Có lẽ vì hạnh phúc là một cái gì luôn trốn chạy cho nên khi người ta tưởng chừng
như nắm bắt được hạnh phúc thì lại không còn thấy nó đâu nữa cả cho nên bất cứ
câu chuyện tình éo le lâm li bi đát nhưng có hậu nào cũng thấy cuối cùng thì
chàng và nàng biến thành tiên như trong huyền thoại, còn nếu như ở lại cõi trần
thì cũng phải kết thúc bằng câu "và từ đó họ sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi".
Sở dĩ tác giả phải chấm dứt câu chuyện như thế vì nếu tác giả có viết tiếp thêm
phần hạnh phúc sau đó thì chỉ làm cho độc giả nhiều khi lẫn lộn không biết là
mình đang đọc tiếp câu truyện tình nói trên hay là đang đọc một bài nghiên cứu
về sự phong phú của ngôn ngữ, hay là một bài tản mạn gì đó về những tư tưởng
triết học cổ kim.
Mặc dù con người đã cố công suy nghĩ để tìm hạnh phúc nhưng hạnh phúc thì lại cứ
luồn theo những kẽ hở của sự suy nghĩ của con người để mà mãi mãi cao chạy xa
bay. Chính vì thế mà hạnh phúc cứ như là củ cà rốt treo trước mắt con lừa để cho
con lừa cứ cong đuôi chạy đuổi suốt đời và không biết bao thế hệ triết gia cứ
tiếp nối nhau ra đời.
Thủa còn cắp sách đến trường, mỗi khi nghe nhắc đến Khổng tử là tôi nghĩ ngay
đến hình ảnh một vị "Vạn thế sư biểu". Dần dà nhờ tìm hiểu ngài rõ hơn, tôi thấy
lúc đầu ngài cũng có vợ, nhưng có lẽ ngài không chịu "dạy vợ từ thuở bơ vơ mới
về" mà lại đợi tới "tam thập nhi lập" mới bắt đầu dạy vợ thì vợ không thèm nghe
nữa cho nên phải tuyên bố một câu rất ư là chí lý: "phụ nhân nan hóa" rồi bỏ nhà
ra đi. Không may cho ngài gặp lúc vua nước ngài cũng không biết trọng đãi người
hiền nên ngài cứ phải chu du khắp trong thiên hạ để mà rao giảng cái đạo "tu
thân tề gia trị quốc bình thiên hạ" mà ngài đã khám phá ra, nhưng chỉ để cho
người đời sau biết mà răn mình
Nhìn qua xứ Hy Lạp thời xưa cũng thế. Trong khi bao nhiêu nhà thông thái của xã
hội Hy Lạp chỉ thích ngụy biện về chân lý ở trên trời thì Socrate tối ngày suy
nghĩ để tìm cho ra cái chân lý tầm thường trên quả đất này. Vợ Socrate cũng
thuộc hạng nỏ mồm không kém gì mấy mụ o xứ Giao Chỉ, thấy Socrate tìm mãi không
ra được đồng xu cắc bạc nào thì không chịu nổi bèn một hôm bưng nguyên cả chậu
nước dơ đổ vào người ông ta. Tuy nhiên, nhờ có vợ vốn làm nghề đỡ đẻ mà Socrate
tìm ra được một phương pháp lý luận mới mà ông đặt tên cho là "phương pháp hộ
sản" để khai sinh cho chân lý vốn nằm sẵn trong mỗi người như là một
phương pháp chống lại đám ngụy biện. Rồi cũng bằng vào phương pháp này mà ông
khám phá ra được một điều rất lãng xẹt nhưng lại làm cho ông trở thành một triết
gia lỗi lạc, đó là: "Tôi chỉ biết một điều là tôi chẳng biết gì cả."
Gần đây thôi, nhà bác học Einstein cũng chỉ vì lúc nuôi cái thân mình còn
chưa xong đã vội ham vui đi rước mẩu xương sườn thất lạc về sống chung nên một
hôm được bà ta cho ăn sáng chỉ có mỗi một quả trứng. Einstein đang đói nên than
ít thì bà ta cằn nhằn cho rằng đó là quá nhiều so với cái khả năng kiếm tiền của
ông ta. Thế là một ý nghĩ nảy nở trong đầu óc của Einstein: chỉ có một quả trứng
nhưng ông thì thấy nó quá nhỏ vì đang cần ăn nhiều còn cái mẩu xương sườn của
ông ta thì lại thấy nó quá lớn khi nghĩ đến cái ngân qũy eo hẹp của gia đình. Và
thế là Einstein đã tình cờ khám phá ra cái điều mà ông khai triển ra thành
Thuyết Tương đối khiến cho khoa học nhảy vọt một bước lên tận các vì sao và ông
ta trở thành một nhà bác học lỗi lạc nhất thế kỷ.
Kể ra thì chuyện triết lý này biết nói đến bao giờ cho cùng. Vậy thì nếu bạn
chưa đi tìm hạnh phúc thì cũng nên thử đi tìm xem sao, còn nếu bạn đã đi tìm
hạnh phúc mà không gặp, lại không thành tiên thành thánh thì cũng đừng lấy đó
làm buồn vì còn có được cái hy vọng trở thành một triết gia nổi tiếng hay một
nhà bác học tài danh, mặc dù cái hy vọng này còn mong manh bấp bênh hơn cả cái
hy vọng trúng số độc đắc.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment