1.- TỪ TRỐNG ÐỒNG VĂN LANG ÐẾN CỘT ÐỒNG MÃ VIỆN
Dân
tộc Việt Nam từ đâu đến thì có nhiều giả
thuyết, nhưng cho dù dựa theo giả thuyết nào thì cũng cho thấy từ khởi
thủy cho đến khi lập quốc tại vùng Bắc Việt vào thời đại Hùng Vương, dân
tộc Việt Nam đều sống tại những vùng thiên nhiên có nhiều núi non sông
ngòi. Những yếu tố địa lý này đã tác động vào tinh thần người dân Việt
cho nên người dân Việt thường yêu núi yêu sông và dùng hai từ sông núi
hoặc giang sơn để chỉ lãnh thổ của quốc gia mình. Cái ý niệm này đã ăn
sâu vào tâm thức và càng được biểu lộ một cách rành rẽ về sau này như
trong bài thơ sau đây:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
(Sông
núi nước Nam vua nước Nam ở; điều này đã được xác định rõ ràng trong
sách
Trời. Nếu kẻ nào làm trái lại điều đó mà đến để xâm chiếm thì chắc chắn
sẽ chuốc lấy thất bại mà thôi.) Ðây là bài thơ tương truyền của Lý
Thường Kiệt làm
ra, nhưng đã được vị tướng này cho loan truyền trong đạo quân của mình
là thơ của thần ban để kích động tinh thần quân Nam chống lại cuộc xâm
lăng của quân nhà Tống vào thế kỷ 11 dưới triều vua Nhân tông nhà Lý.
Nhờ có bài thơ này mà quân Nam đã nức lòng chiến đấu, giữ vững được bờ
cõi và nước ta vẫn duy trì được nền tự
chủ.
Ngoài
cái quan niệm quốc gia được tượng trưng bằng sông núi người dân Việt
còn quan niệm quốc gia như một thực thể hữu hình cho nên cũng có một
linh hồn thường được xưng tụng như là hồn thiêng sông núi. Quan niệm này
có thể xuất phát từ những tin tưởng phiếm thần xa xưa của tổ tiên dân
tộc
Việt. Do sự khiếp sợ trước những mãnh lực thiên nhiên lúc nào cũng đe
dọa cuộc sống của con người mà con người đã thần hóa tất cả mọi sự vật
trong thiên nhiên. Từ đó nảy sinh ra không biết bao nhiêu loại thần linh
được coi như là những đấng vô hình nhưng lại có nhiều quyền năng thiêng
liêng nên con người phải kính sợ để tránh bị tai ương, cũng như thần
linh là những đấng mà con người có thể chạy đến để cầu xin giúp đỡ.
Vì quốc gia là một lãnh thổ có núi và sông cũng như cuộc sống của người
dân Việt gắn liền với một môi trường đầy dẫy những sông và núi, nhưng
sông và núi cũng là những thế lực vô cùng bí hiểm và có khả năng hủy
diệt con người rất khủng khiếp như lụt
lội, núi lở v.v... cho nên những năng
lực vô hình đã tạo ra những hiện tượng đó được coi như là những vị thần
sông và núi, và đó cũng chính là những vị thần linh đáng kính sợ nhất vì
có những tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người.
Mặt khác hồn thiêng sông núi cũng có thể là sự ám chỉ anh linh bao đời
nay của tổ tiên dân tộc Việt đã bỏ mình trên khắp núi sông của đất nước
để gìn giữ mảnh đất này. Người dân Việt tin tưởng người chết không có
nghĩa là hết mà linh hồn của người chết vẫn lẩn quất bên cạnh con cháu
để theo dõi bảo bọc cho con cháu. Và nói chung thì các vị thần linh và
anh linh tổ tiên này đều là những thế lực siêu linh luôn hiện diện bên
con người và cũng có thể ban ơn hay giáng họa cho con người tùy theo
cách thế hành xử của con người.
Tuy chúng ta không có sử liệu nào cho biết xã hội thời đại Hùng Vương
như thế nào nhưng qua những huyền thoại chúng ta cũng có thể đoán ra cho
tới khi đã lập
quốc, cuộc sống của người dân Việt vẫn còn rất đơn giản. Những câu tục
ngữ như
"ăn lông ở lỗ", "ăn tươi nuốt sống" là những câu diễn tả hình
thức sinh hoạt con người vào thời kỳ này, hoặc như chuyện
Chử Ðồng tử kể là nhà có hai cha con mà chỉ có mỗi một
chiếc khố che thân cũng đủ cho ta thấy ngay vào thời đại Hùng
Vương, nếp sống trong xã hội vẫn còn rất đơn giản và rất
gần với thiên nhiên. Tuy nhiên về trình độ văn minh thì vào
thời đại Hùng Vương này dân tộc Việt Nam cũng đã qua khỏi thời đại đồ đá
để biết chế tạo ra một số dụng cụ bằng đồng mà tiêu biểu nhất là cái
trống đồng.
Trống đồng có từ bao giờ thì cho tới nay vẫn chưa có thể chứng minh được
một cách chính xác, nhưng bằng vào việc nghiên cứu các cổ vật đào được ở
Bắc Việt thì trống đồng đã xuất hiện trong đời sống của các bộ tộc Lạc
Việt ngay từ khởi đầu thời đại Hùng vương, đồng thời với thời kỳ văn
minh đồ đồng ở khu vực này và tiêu biểu nhất là chiếc trống đồng Ngọc Lũ
của nền văn hoá Ðông sơn.
Ý nghĩa và công dụng của cái trống đồng ấy như thế nào thì chưa ai có
thể giải thích tường tận vì thiếu sử
liệu, chỉ biết rằng trống đồng là một vật đặc trưng của các bộ lạc Việt
từ lâu đời và mang một ý nghĩa quan trọng đối với các bộ lạc này. Trống
có thể được dùng như một khí cụ phát ra âm nhạc trong các cuộc tế lễ
thần
linh, để truyền lệnh cho người trong bộ lạc hay để cổ võ tinh thần cho
người trong bộ lạc của mình chiến đấu chống lại kẻ xâm lăng.
Giai đoạn huyền sử kết thúc kể từ khi Thục Phán dứt được họ Hồng Bàng và
chiếm được Văn Lang. Sau khi sát nhập Văn Lang vào đất Tây
Âu của mình để thành lập ra nước Âu lạc, Thục Phán tự xưng là An Dương
vương. Cùng thời gian này thì ở vùng Hoa Nam, Triệu Ðà, một tướng của
nhà Hán nhân cơ hội nhà Hán suy yếu bèn hùng cứ vùng này và tìm cách mở
rộng biên cương về phía
nam. Sau nhiều lần đánh
Âu Lạc không được, Triệu Ðà bèn giả kế kết thân bằng cách cho con trai
sang cầu hôn công chúa của An Dương vương. Do sự kết thân này mà An
Dương vương không phòng bị nên đã bị Triệu Ðà đánh úp và chiếm mất
nước.
Triệu
Ðà sau khi lấy được Âu Lạc thì sát nhập vào quận Nam Hải và lập thành
một nước gọi là Nam
Việt, lãnh thổ bao gồm xứ Bắc Việt và các vùng Quảng Ðông và Quảng Tây
của Trung quốc ngày nay. Triệu Ðà sáng lập ra nhà
Triệu, đem văn minh Trung quốc truyền sang cho nên dân Văn Lang bắt đầu
tiêm nhiễm văn hoá phương Bắc kể từ đó. Cũng kể từ khi Triệu Ðà lập ra
nước Nam Việt thì lịch sử không còn là huyền thoại mà các biến cố quan
trọng đã được ghi lại trong sử sách Trung
quốc. Nhà Triệu trị vì Nam Việt được một trăm năm thì bị vua Vũ Ðế nhà
Hán thôn tính, mở màn cho một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài cả ngàn năm.
Mặc dù theo huyền thoại thì nước Văn Lang do các vua Hùng thừa kế nhau
truyền tiếp qua 18 đời vua theo tính cách phụ
hệ, tuy nhiên ngành khảo cổ vẫn ghi nhận tính cách mẫu hệ của giống dân
Việt ở thời kỳ này. Tính cách phụ hệ chỉ bắt đầu từ khi dân Việt chịu
ảnh hưởng của văn hóa Trung
hoa. Chính vì thế mà cuộc nổi dậy đầu tiên của dân tộc Việt để giành lại
phần đất Văn Lang lại do nữ giới lãnh đạo.
Sử
chép rằng kể từ khi nước Nam Việt bị vua Vũ Ðế nhà Hán thôn tính thì
được cải danh thành Giao chỉ bộ và chia thành 9 quận và mỗi quận do một
quan Thái thú cai
trị. Riêng quận Giao chỉ tức nuớc Văn Lang cũ thì những lạc tướng
lạc hầu trước đây vẫn được duy trì thế lập để cai trị các bộ lạc như
thời vua Hùng. Ðến đời vua Quang Vũ, đất Giao Chỉ do Thái Thú Tô Ðịnh
cai trị rất là tàn ác nên dân Giao Chỉ rất lấy làm oán
giận. Vào năm Canh Tí (tức năm 40 sau CN), Tô Ðịnh lại giết Thi
Sách vốn thuộc giòng dõi của một Lạc tướng và đang làm quan lệnh Chu
Diên nên vợ là Trưng
Trắc, con gái quan lạc tướng ở huyện Mê Linh bèn cùng em gái là
Trưng Nhị khởi quân đánh lại Tô Ðịnh. Quân Tô Ðịnh thua phải bỏ chạy về
quận Nam
Hải. Hai bà bèn xưng làm vua đóng đô ở Mê Linh.
Qua năm sau vua Quang Vũ nhà Hán sai Mã Viện đem quân qua đánh. Quân của
Hai Bà Trưng không đương cự nổi quân thiện chiến của danh tướng nhà
Ðông Hán nên Hai Bà phải rút về Cấm Khê nhưng sau đó cũng bị quân Tàu
đánh tan. Sử Tàu ghi là Hai bà bị bắt và bị
giết, nhưng truyền thuyết thì vẫn cho rằng Hai Bà đã gieo mình xuống
sông Hát giang tự trầm vào ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão
(năm 43 Tây lịch). Nay ở làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây và ở
bãi Ðồng nhân gần Hà nội đều có đền thờ Hai Bà. Hàng năm cứ đến ngày
này thì dân chúng địa phương lại mở
hội.
Mã Viện sau khi tiêu diệt cuộc nổi dậy của dân Việt do Hai bà Trưng lãnh
đạo thì liền cho áp dụng nhiều biện pháp cai trị nghiêm khắc để kìm hãm
ý chí quật khởi của người Giao Chỉ đồng thời cho truyền bá văn hóa
Trung Hoa nhằm mục đích đồng hóa dân bản
xứ. Một chính sách cưỡng bức tiêu biểu nhất của Mã Viện là ra lệnh cấm
các bộ tộc Việt không được xử dụng trống đồng, vì trống đồng không phải
là một vật thường ai cũng có được mà chỉ có các tộc trưởng mới có và như
thế trống cũng tượng trưng cho uy quyền của tộc trưởng. Ngoài ra trống
đồng còn có một ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống của người dân
các bộ tộc Giao chỉ và có lẽ tiếng trống đồng có một ma lực lôi cuốn
người dân Việt hành động theo một mục tiêu thiêng liêng nào đó cho nên
Mã Viện đã cho lệnh thu gom hết trống đồng hiện có rồi đem đúc thành một
cây trụ đồng chôn trên đất Giao
chỉ, trên cột có khắc giòng chữ: "Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt" ý nói
nếu cây trụ đồng này gãy
đổ thì dân Giao chỉ sẽ tuyệt mất giống.
Tục truyền rằng người dân Việt vì e ngại lời nguyền đó có thể làm dân
tộc mình bị diệt vong nên bất cứ người dân Việt nào đi ngang qua chỗ cột
đồng cũng ném vào gốc trụ một cục đá để cho cây trụ không thể đổ ngã.
Lâu dần lớp đá quăng vào đã phủ kín luôn cây trụ và ngày nay người ta
vẫn chưa tìm ra được vết tích cây trụ đồng ấy ở đâu. Cũng từ
ấy, dân tộc Việt nam bị người Tàu đô hộ suốt chục thế kỷ nên không còn
bao giờ có thể nghe lại được âm thanh của cái trống đồng này
nữa, nhưng cái dư âm của tiếng trống này có lẽ vẫn chưa bao giờ dứt
trong tâm hồn người dân
Việt.
2.-"THÙ NHÀ NỢ NƯỚC" VỚI "ƠN ÐỀN OÁN TRẢ"
Câu nói nước ta có hơn bốn ngàn năm lập quốc, mà
mỗi người
trong chúng ta vẫn thường nghe từ lúc mới bắt đầu học lịch
sử nước nhà, nếu ngẫm nghĩ lại thì hơn hai ngàn năm đầu
thuộc về huyền sử, không biết người dân Việt sống và yêu thương
nhau như thế nào, còn như kể từ khi có sử thì dân Việt đã
phải trải qua một ngàn năm bị người Tàu đô hộ rồi. Suốt
một thời gian dài đằng đẵng sống dưới chế độ cai trị hà
khắc và bị bóc lột một cách tàn nhẫn, sự căm hờn tích lũy này
đã biến thành mối thù thiên thu để rồi lưu truyền mãi mãi
trong lòng mỗi người dân. Ðiều này đã làm cho một ngàn năm
tiếp theo dù có giành lại quyền tự chủ, nhưng cái quá khứ
sống căm hờn dưới chế độ hà khắc của người Trung hoa không
thể nào gột xóa và mối nguy hiểm của kẻ thù phương Bắc thì
vẫn lơ lửng trên đầu khiến cho trong lòng người dân Việt từ thế hệ này
sang thế hệ khác lúc nào cũng như mang nặng một mối thù truyền kiếp khôn
nguôi.
Sau mấy lần khởi nghĩa giành quyền tự chủ ngắn ngủi, đến cuối thế kỷ thứ
10, dân Việt nam mới thực sự giành lại được quyền tự chủ lâu dài nhưng
lãnh thổ chỉ còn là vùng đất Văn Lang cũ. Người Việt nam dù qua một ngàn
năm Bắc thuộc có tập được tính nhẫn nhục để sống còn nhưng đồng thời
cũng không làm sao tránh khỏi bị tiêm nhiễm cái thói độc ác từ kẻ cai
trị. Chính vì thế mà cứ mỗi lần chống ngoại bang xâm lăng, người dân
Việt đều xem đó là một cơ hội để trả thù những bất công áp bức mà kẻ thù
đã gây ra cho mình nên lúc có cơ hội vùng lên là lăn xả vào giết quân
thù không gớm tay như câu thành
ngữ "phân thây uống máu" đã cho thấy cái ý chí căm thù do cảm tính thúc
đẩy của người dân Việt cũng rất là tàn
bạo.
Tuy nhiên trong khi mà cơ hội trả mối thù chung không có thì những sự uất ức dồn ép
của kẻ "thấp cổ bé miệng" kêu trời không thấu không được
giải tỏa sẽ được thể hiện bằng thái độ dối trá và
những hành động trả thù vặt. Cái tâm lý này đã từng được Nguyễn Du mô tả trong vai Hoạn Thư của truyện
Kiều:
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao
Cái
tâm thức trả thù theo sự thúc đẩy của cảm tính này được thể hiện bàng
bạc khắp trong văn học dân gian của
ta. Trong câu truyện Tấm Cám, Tấm sau khi bị dì ghẻ và em gái cùng cha
khác mẹ hành hạ điêu đứng đủ điều, chết đi sống lại và trải qua mấy lần
hóa kiếp cho đến khi trở lại kiếp người thì cũng không quên mối thù đối
với kẻ làm hại mình nên đã trả thù bằng cách đã dùng chảo nước sôi để
giết Cám lại còn đem xác Cám làm mắm gửi về biếu cho dì ghẻ ăn. Dì ghẻ
vô tình nên vẫn ăn ngon cho đến khi hũ mắm gần hết thì mới thấy lòi ra
cái đầu lâu con gái mình đành chỉ biết nghẹn ngào uất ức lên mà
chết.
Truyện
Trạng Quỳnh cũng nói lên cái đặc tính tiêu biểu của người Việt nam là
tinh ranh và thích trả thù
vặt. Mặc dù chán chế độ vua quan thối nát nhưng Trạng Quỳnh không hành
động để phá bỏ cái hệ thống cầm quyền mà chỉ nhằm vào những đối tượng
được xem là kẻ gây ra những bất công uất ức trực tiếp cho mình mà trả
thù cho bõ ghét hơn là nhằm vào mục đích xây
dựng. Chính vì thế mà câu truyện kết thúc về Trạng Quỳnh cũng chỉ là một
câu truyện nói lên cái thái độ thụ động và trả thù tiêu cực này.
Sau nhiều lần nhà chúa bị Trạng Quỳnh châm chọc đến lúc nhà chúa không
còn chấp nhận nổi đành phải tìm cách giết Trạng Quỳnh một cách khéo léo
bằng cách gọi Trạng Quỳnh vào chầu và ban cho một bát yến có thuốc độc
ép Trạng phải ăn. Trạng Quỳnh thì cũng đã biết con đường mình đi có ngày
sẽ dẫn đến kết cuộc này nên đã chuẩn bị dặn trước với vợ con là nếu
Quỳnh qua nhà chúa về mà
chết thì không được phát tang mà phải đợi bên nhà chúa phát tang rồi thì
mới được làm ma chay cho mình. Do đó sau khi ăn bát yến thì Trạng thấy
khó chịu trong người nên xin cáo
từ. Quân hầu võng Trạng về đến nhà thì Trạng cũng đã
tắt thở nhưng người nhà vẫn cứ để Trạng nằm yên trên võng giả như đọc
sách. Nhà chúa cho người dọ thám thấy bên nhà Trạng mọi sinh hoạt vẫn
bình thường và Trạng vẫn nằm đọc sách nên nhà chúa nổi giận sai nhà bếp
đem loại thuốc độc đã dùng giết Trạng bỏ vào bát yến cho mình nếm
thử. Không ngờ vừa nếm xong thì chúa cũng thấy khó chịu trong người rồi
tắt
thở. Thế là:
Trạng chết, Chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn
Ngay
cả trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã mô tả Kiều như một con người
chỉ biết xử sự theo những cảm tính thông thường của người dân Việt cho
nên khi Kiều nhờ thanh thế của Từ Hải mà có dịp báo thù thì cũng đã thực
hiện ngay cái việc
ơn đền oán trả với những kẻ đã gây nên ân oán với Kiều trước
đây. Nhưng cũng vì Kiều chỉ xử sự theo cảm tính chứ không
phải do lý trí suy luận cho nên dễ dàng tha cho Hoạn Thư khi nghe
Hoạn Thư tự biện hộ một cách bùi tai nhưng lại giết những
kẻ thừa hành như Ưng, Khuyển, còn cái nguyên nhân gây ra cái ác đầu tiên
cho gia đình đến nỗi Kiều phải bán mình chuộc cha là cả một chế độ quan
lại tham nhũng thối nát thì lại không hề động chạm đến. Cũng vì thế mà
sau này Kiều cũng đã khuyên Từ Hải quy phục triều đình khi thấy triều
đình dùng chiêu thức dụ hàng khiến cho Từ Hải mới phải chết đứng giữa
trận tiền vì sự tráo trở của Hồ Tôn
Hiến.
Do sự thù hận truyền kiếp này đã đi vào tâm thức khiến cho khi sống với
nhau, dù có hiền hòa thương yêu vẫn có những lúc hận thù nổi dậy để xoá
nhòa đi cái bản chất nhân hậu của mình. Khi mà những chuyện tương tranh
cá nhân tạo nên thù hận thì con người lại sẵn sàng chạy theo một thế lực
nào đó có thể giúp mình có cơ hội trả mối thù riêng. Cách hành xử do
cảm tính thúc đẩy này đã khiến cho suốt một ngàn năm tự
chủ, người dân Việt đã không thể đoàn kết để cùng xây
dựng, trái lại đã tạo ra không biết bao nhiêu lần cảnh nồi da xáo thịt
và hành động trả thù vặt hầu như đã trở thành một nếp hành xử truyền
thống.
Huyền
thoại Việt nam cũng có một câu truyện tiêu biểu cho mối tương tranh
này, đó là câu chuyện Sơn Tinh Thủy
Tinh. Vào đời vua Hùng thứ 18 có một công chúa rất xinh đẹp nên được hai
vị thần sông và thần núi để ý muốn cưới làm
vợ. Vua Hùng thấy cả hai vị thần đều là kẻ siêu phàm nên không biết gả
con cho ai bèn ước hẹn trong một ngày vị thần nào mang sính lễ đến trước
thì sẽ lấy được công chúa. Sơn Tinh mang sính lễ đến trước nên được vua
Hùng gả công chúa cho và đem về ở núi Tản viên. Thủy Tinh đến chậm nên
khi thấy Sơn tinh đã cưới được Mỵ nương và đưa về núi thì lấy làm tức
giận bèn làm ra mưa to gió lớn dâng nước lên cao và sai các loài thủy
quái tiến lên núi để chiếm lại Mỵ Nương. Sơn Tinh bèn sai hổ báo lăn gỗ
đá
xuống, lại tạo ra sấm sét đánh vào đám thủy quái và làm cho núi cao lên
khiến cho Thủy Tinh không làm gì được. Từ đó Sơn tinh và Thủy tinh trở
thành thù địch và mối hận tình này kéo dài triền miên khiến cho hàng năm
cuộc chiến lại tái diễn và sự kiện này vẫn cứ lặp đi lặp lại mãi không
bao giờ
dứt.
Nhiều người cho rằng huyền thoại này nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt
do sông Hồng gây ra hằng năm tại Bắc Việt. Dù chủ đích của người đặt ra
câu truyện huyền thoại này là nhằm giải thích một hiện tượng thiên nhiên
đi nữa, nhưng xét về mặt ý nghĩa thì đây cũng có thể coi như là biểu
tượng cho cái khuynh hướng dùng bạo động để giải quyết những tương tranh
vì quyền lợi cá nhân tiềm ẩn trong tâm hồn dân tộc
vậy.
Cái
niềm tự hào bốn ngàn năm văn hiến đã bao lần hoen ố vì những lần nội
chiến tương tàn mà tiêu biểu nhất là giai đoạn Nam Bắc triều giữa nhà Lê
và nhà Mạc, cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh và cuộc chiến tranh giữa nhà
Nguyễn Tây sơn với nhà Nguyễn gia miêu và mới đây là cuộc chiến tranh
Quốc Cộng. Sau mỗi lần nội chiến kết thúc là giai đoạn hành động trả thù
của kẻ chiến thắng. Còn người sống của phe bại trận bao giờ cũng lãnh
không biết bao nhiêu sự trừng phạt của kẻ chiến thắng một cách dã man và
tàn
bạo.
Cũng vì cách suy nghĩ và hành động theo cảm tính mà tuy Nguyễn Ánh có
thống nhất được giang san nhưng không thống nhất được lòng người khiến
cho đất nước bị người Pháp xâm chiếm. Rồi sau đó qua gần một thế kỷ bị
Tây đô hộ cho đến giữa thế kỷ 20, khi trào lưu nhân loại bước vào kỷ
nguyên tự do dân chủ thì người dân Việt cũng vùng lên mơ ước làm một
cuộc cách mạng giải phóng con người, nhưng cũng vì cái mối thù tiềm ẩn
ấy đã khiến cho con người bị mê hoặc vào trong cơn lốc của chủ nghĩa lấy
căm thù làm động cơ tranh đấu cho một xã hội lý tưởng không tưởng.
Chính vì thế mà khi vận động làm cách mạng, thay vì phát triển tinh thần
tự do và dân chủ và tôn trọng nhân quyền, người ta
lại chỉ biết tìm cho ra những đối tượng được gán cho là kẻ thù để mà hô
hào tiêu diệt cho thoả mãn những uất ức chất chứa ở trong lòng.
Hình
như người dân Việt nào cho dù có hiền lành đến đâu thì cũng có những
lúc thấy giòng máu thù hận sôi sục trong người. Chẳng thế mà nhạc sĩ Văn
Cao, một con người mơ mộng hiền lành với những giấc mơ của các vì sao
trong các nhạc phẩm Thiên Thai, Trương Chi, nhưng lúc say mê với cách
mạng cũng đã viết lên những câu như
: "Thề phân thây uống máu quân thù..." và đó lại là lời của bài
Quốc ca của một nước. Còn nhạc sĩ Phạm Duy, tác giả bản Tình
Ca nổi tiếng, thì vào thời còn đi theo kháng chiến chống Pháp cũng đã
sáng
tác rất nhiều bản nhạc mà lời lẽ đều nói lên cái ý chí căm
thù của người dân Việt "... Ði là đi quyết chiến, đi là đi
quyết thắng, đi là mang mối thù thiên thu..." (Xuất quân - Phạm
Duy) "...Bao oan khiên đang về đây hú với gió, là hồn người Nam
nhớ thù..." (Chiến sĩ vô danh - Phạm Duy) hay là nhắc đến cái món
nợ xương máu như trong bài Nợ Xương máu cũng của Phạm Duy, và
còn không biết bao nhiêu bản nhạc của nhiều nhạc sĩ khác sáng
tác trong trong thời kỳ này không ít thì nhiều đều có những lời lẽ khích
động cái mối căm thù tiềm ẩn này.
Chính vì biết lợi dụng một cách tinh vi cái cảm tính căm thù này mà
người Cộng sản đã lèo lái dân tộc Việt Nam đi vào con đường bế tắc của
một chủ nghĩa không tưởng đã hơn nửa thế kỷ nay. Vì vong thân cho lý
tưởng Cọng sản nên họ đã bắt buộc phải tiêu diệt người Quốc gia đối lập,
và để thực hiện ý đồ đó, họ chỉ cần khôn khéo áp dụng cái thủ đoạn ném
đá dấu tay và gán cho những người Quốc gia hay đối lập cái nhãn hiệu kẻ
thù có nợ máu với nhân dân với Tổ quốc là đủ để khơi động cái ý chí trả
thù trong lòng người dân để mà sẵn sàng tiếp tay cho Cộng sản tiêu diệt
kẻ nào đối lập với
họ.
Mặc
dù người Cộng sản chủ trương vô thần và triệt hạ tôn giáo, nhưng khi
muốn vận dụng sức mạnh dân tộc, họ đã khéo lồng vào hình ảnh Tổ quốc
thiêng liêng để mê hoặc người dân khiến cho không còn thấy cái bản chất
duy vật vong bản của chủ thuyết Cộng sản. Khai thác cái cảm tính yêu
điều thiện ghét điều ác và cái ý tưởng
"ơn đền oán trả" của người bình dân, người Cộng sản đã khéo
biến Ðảng thành vị thần cứu tinh của dân tộc và các thế
lực đối lập là kẻ ác phải đền tội là đủ xách động
quần chúng tiêu diệt bất cứ ai được coi là kẻ thù của người
Cọng sản. Cách nói của người dân miền Bắc dưới chế độ
Cọng sản trước đây "nhờ ơn Ðảng, nhờ ơn Bác..." cũng như sự
biện minh cho những hành động dã man bằng cái lý lẽ phải
trừng trị những kẻ gây tội ác và có nợ máu với nhân dân đủ
cho thấy người Cộng sản đã khai thác cái tâm lý này của người
dân Việt một cách vô cùng thâm độc.
Khi người Quốc gia chống
lại Cộng sản thì cái ý thức về Tự do Dân chủ vẫn chỉ là
một quan niệm rất lờ mờ nhưng cái động cơ trực tiếp thì thường
vẫn là do sự thù hận. Vì Cộng sản giết người thân của ta, tàn
ác với gia đình ta mà mang một cái thù nhà phải báo. Chính vì
chỉ hành động trong cái vòng lẩn quẩn của ân oán và thái độ
lừng chừng giữa thủ đoạn và đạo đức mà người Quốc gia
cứ bị lúng túng trong cách đối phó với người Cộng sản và không
phát huy được cái lý tưởng của mình. Rồi cũng vì cái bản tính
mưu cầu quyền lợi thiển cận và cảm tính thù hằn cá nhân mà
người Quốc gia cũng chỉ biết đả phá nhau để tự làm suy yếu
mình, thua mưu Cộng sản và tạo cơ hội cho các thế lực ngoại
bang thao túng.
Rồi cuộc qua phân lại kéo theo cuộc nội chiến do
những thế lực quốc tế đang tranh chấp nhau về mặt ý thức
hệ chủ động cho nên sau hai thập niên chiến tranh băng hoại đến
lúc phe miền Nam bị các thế lực quốc tế bức tử thì phe miền
Bắc tự cho mình là kẻ chiến thắng cũng kết án tất cả hàng
ngũ phe miền Nam là ngụy: từ ngụy quyền, ngụy quân và luôn cả
dân cũng là ngụy dân. Mà đã là ngụy thì phải lãnh nhận sự
trừng phạt của kẻ tự cho mình là chính. Xưa Gia Long từng quật
mồ Nguyễn Huệ và theo truyền thuyết thì đầu lâu còn bị
xiềng xích và đem giam vào ngục tối. Ngày nay thì sự trả thù đi
đến chỗ tinh vi hơn nên thay vì cảnh tắm máu của thời xưa, người
ta dùng hình thức gọi là "học tập cải tạo" cho có vẻ nhân đạo
nhưng thực chất vẫn là một cuộc trả thù bằng cách giết lần
giết mòn trong lặng lẽ. Sự căm thù đã thể hiện tới mức không
còn nhân tính nhưng lúc nào cũng được ngụy trang dưới những
mỹ từ rất tình người. Ðiều này cũng lại khiến cho đất nước
tuy có thống nhất nhưng lòng người thì không thống nhất.
Trong bài
hịch Bình Ngô Ðại Cáo của Nguyễn Trãi có hai câu thường được
người đời sau viện dẫn như một sách lược khôn ngoan và đúng
đắn của dân tộc:
Lấy chí nhân mà thay cường bạo
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn
Trong bao nhiêu năm qua, điều này có được giới
lãnh đạo đem ra thực hiện để đối phó với kẻ thù khác
chủng tộc và cường thịnh hơn mình vì cho dù có đuổi được
quân xâm lăng nhưng cái gốc của kẻ thù thì vẫn vững như bàn
thạch và cái mối đe dọa của kẻ thù thì vẫn lơ lửng trên đầu
nên phải dùng kế sách đó để cầu hòa. Riêng đối với người anh em một nhà
với nhau mà hễ
đã coi nhau như kẻ thù thì một khi bên nào bại trận đều bị bên kia coi
là giặc thì chính sách này chưa bao giờ được áp dụng thực
sự.
Vậy thì phải chăng vì tập quán suy nghĩ và hành xử theo cảm tính đó mà
người dân Việt qua bao đời nay
lúc nào cũng yêu mến mảnh giang sơn của mình, lúc nào cũng muốn làm cho
dân tộc mình rạng
rỡ khắp năm châu, nhưng trái lại vẫn không bao giờ có thể cùng nhau thực
tâm đoàn kết để xây dựng đất nước thành một quốc gia hùng cường khiến
cho đất nước lúc nào cũng bị kẻ thù phương Bắc uy hiếp nếu không thì
cũng bị các thế lực siêu cường khác lũng đoạn.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment