Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Friday, February 22, 2013

Hồn Thiêng Sông Núi

Tạp luận


1.- TỪ TRỐNG ÐỒNG VĂN LANG ÐẾN CỘT ÐỒNG MÃ VIỆN

Dân tộc Việt Nam từ đâu đến thì có nhiều giả thuyết, nhưng cho dù dựa theo giả thuyết nào thì cũng cho thấy từ khởi thủy cho đến khi lập quốc tại vùng Bắc Việt vào thời đại Hùng Vương, dân tộc Việt Nam đều sống tại những vùng thiên nhiên có nhiều núi non sông ngòi. Những yếu tố địa lý này đã tác động vào tinh thần người dân Việt cho nên người dân Việt thường yêu núi yêu sông và dùng hai từ sông núi hoặc giang sơn để chỉ lãnh thổ của quốc gia mình. Cái ý niệm này đã ăn sâu vào tâm thức và càng được biểu lộ một cách rành rẽ về sau này như trong bài thơ sau đây:
 
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

(Sông núi nước Nam vua nước Nam ở; điều này đã được xác định rõ ràng trong sách Trời. Nếu kẻ nào làm trái lại điều đó mà đến để xâm chiếm thì chắc chắn sẽ chuốc lấy thất bại mà thôi.) Ðây là bài thơ tương truyền của Lý Thường Kiệt làm ra, nhưng đã được vị tướng này cho loan truyền trong đạo quân của mình là thơ của thần ban để kích động tinh thần quân Nam chống lại cuộc xâm lăng của quân nhà Tống vào thế kỷ 11 dưới triều vua Nhân tông nhà Lý. Nhờ có bài thơ này mà quân Nam đã nức lòng chiến đấu, giữ vững được bờ cõi và nước ta vẫn duy trì được nền tự chủ.
 
Ngoài cái quan niệm quốc gia được tượng trưng bằng sông núi người dân Việt còn quan niệm quốc gia như một thực thể hữu hình cho nên cũng có một linh hồn thường được xưng tụng như là hồn thiêng sông núi. Quan niệm này có thể xuất phát từ những tin tưởng phiếm thần xa xưa của tổ tiên dân tộc Việt. Do sự khiếp sợ trước những mãnh lực thiên nhiên lúc nào cũng đe dọa cuộc sống của con người mà con người đã thần hóa tất cả mọi sự vật trong thiên nhiên. Từ đó nảy sinh ra không biết bao nhiêu loại thần linh được coi như là những đấng vô hình nhưng lại có nhiều quyền năng thiêng liêng nên con người phải kính sợ để tránh bị tai ương, cũng như thần linh là những đấng mà con người có thể chạy đến để cầu xin giúp đỡ. 
 
Vì quốc gia là một lãnh thổ có núi và sông cũng như cuộc sống của người dân Việt gắn liền với một môi trường đầy dẫy những sông và núi, nhưng sông và núi cũng là những thế lực vô cùng bí hiểm và có khả năng hủy diệt con người rất khủng khiếp như lụt lội, núi lở v.v... cho nên những năng lực vô hình đã tạo ra những hiện tượng đó được coi như là những vị thần sông và núi, và đó cũng chính là những vị thần linh đáng kính sợ nhất vì có những tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người. 
 
Mặt khác hồn thiêng sông núi cũng có thể là sự ám chỉ anh linh bao đời nay của tổ tiên dân tộc Việt đã bỏ mình trên khắp núi sông của đất nước để gìn giữ mảnh đất này. Người dân Việt tin tưởng người chết không có nghĩa là hết mà linh hồn của người chết vẫn lẩn quất bên cạnh con cháu để theo dõi bảo bọc cho con cháu. Và nói chung thì các vị thần linh và anh linh tổ tiên này đều là những thế lực siêu linh luôn hiện diện bên con người và cũng có thể ban ơn hay giáng họa cho con người tùy theo cách thế hành xử của con người. 
 
Tuy chúng ta không có sử liệu nào cho biết xã hội thời đại Hùng Vương như thế nào nhưng qua những huyền thoại chúng ta cũng có thể đoán ra cho tới khi đã lập quốc, cuộc sống của người dân Việt vẫn còn rất đơn giản. Những câu tục ngữ như "ăn lông ở lỗ", "ăn tươi nuốt sống" là những câu diễn tả hình thức sinh hoạt con người vào thời kỳ này, hoặc như chuyện Chử Ðồng tử kể là nhà có hai cha con mà chỉ có mỗi một chiếc khố che thân cũng đủ cho ta thấy ngay vào thời đại Hùng Vương, nếp sống trong xã hội vẫn còn rất đơn giản và rất gần với thiên nhiên. Tuy nhiên về trình độ văn minh thì vào thời đại Hùng Vương này dân tộc Việt Nam cũng đã qua khỏi thời đại đồ đá để biết chế tạo ra một số dụng cụ bằng đồng mà tiêu biểu nhất là cái trống đồng. 
 
Trống đồng có từ bao giờ thì cho tới nay vẫn chưa có thể chứng minh được một cách chính xác, nhưng bằng vào việc nghiên cứu các cổ vật đào được ở Bắc Việt thì trống đồng đã xuất hiện trong đời sống của các bộ tộc Lạc Việt ngay từ khởi đầu thời đại Hùng vương, đồng thời với thời kỳ văn minh đồ đồng ở khu vực này và tiêu biểu nhất là chiếc trống đồng Ngọc Lũ của nền văn hoá Ðông sơn.
 
Ý nghĩa và công dụng của cái trống đồng ấy như thế nào thì chưa ai có thể giải thích tường tận vì thiếu sử liệu, chỉ biết rằng trống đồng là một vật đặc trưng của các bộ lạc Việt từ lâu đời và mang một ý nghĩa quan trọng đối với các bộ lạc này. Trống có thể được dùng như một khí cụ phát ra âm nhạc trong các cuộc tế lễ thần linh, để truyền lệnh cho người trong bộ lạc hay để cổ võ tinh thần cho người trong bộ lạc của mình chiến đấu chống lại kẻ xâm lăng. 
 
Giai đoạn huyền sử kết thúc kể từ khi Thục Phán dứt được họ Hồng Bàng và chiếm được Văn Lang. Sau khi sát nhập Văn Lang vào đất Tây Âu của mình để thành lập ra nước Âu lạc, Thục Phán tự xưng là An Dương vương. Cùng thời gian này thì ở vùng Hoa Nam, Triệu Ðà, một tướng của nhà Hán nhân cơ hội nhà Hán suy yếu bèn hùng cứ vùng này và tìm cách mở rộng biên cương về phía nam. Sau nhiều lần đánh Âu Lạc không được, Triệu Ðà bèn giả kế kết thân bằng cách cho con trai sang cầu hôn công chúa của An Dương vương. Do sự kết thân này mà An Dương vương không phòng bị nên đã bị Triệu Ðà đánh úp và chiếm mất nước. 
 
Triệu Ðà sau khi lấy được Âu Lạc thì sát nhập vào quận Nam Hải và lập thành một nước gọi là Nam Việt, lãnh thổ bao gồm xứ Bắc Việt và các vùng Quảng Ðông và Quảng Tây của Trung quốc ngày nay. Triệu Ðà sáng lập ra nhà Triệu, đem văn minh Trung quốc truyền sang cho nên dân Văn Lang bắt đầu tiêm nhiễm văn hoá phương Bắc kể từ đó. Cũng kể từ khi Triệu Ðà lập ra nước Nam Việt thì lịch sử không còn là huyền thoại mà các biến cố quan trọng đã được ghi lại trong sử sách Trung quốc. Nhà Triệu trị vì Nam Việt được một trăm năm thì bị vua Vũ Ðế nhà Hán thôn tính, mở màn cho một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài cả ngàn năm. 
 
Mặc dù theo huyền thoại thì nước Văn Lang do các vua Hùng thừa kế nhau truyền tiếp qua 18 đời vua theo tính cách phụ hệ, tuy nhiên ngành khảo cổ vẫn ghi nhận tính cách mẫu hệ của giống dân Việt ở thời kỳ này. Tính cách phụ hệ chỉ bắt đầu từ khi dân Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung hoa. Chính vì thế mà cuộc nổi dậy đầu tiên của dân tộc Việt để giành lại phần đất Văn Lang lại do nữ giới lãnh đạo. 

Sử chép rằng kể từ khi nước Nam Việt bị vua Vũ Ðế nhà Hán thôn tính thì được cải danh thành Giao chỉ bộ và chia thành 9 quận và mỗi quận do một quan Thái thú cai trị. Riêng quận Giao chỉ tức nuớc Văn Lang cũ thì những lạc tướng lạc hầu trước đây vẫn được duy trì thế lập để cai trị các bộ lạc như thời vua Hùng. Ðến đời vua Quang Vũ, đất Giao Chỉ do Thái Thú Tô Ðịnh cai trị rất là tàn ác nên dân Giao Chỉ rất lấy làm oán giận. Vào năm Canh Tí (tức năm 40 sau CN), Tô Ðịnh lại giết Thi Sách vốn thuộc giòng dõi của một Lạc tướng và đang làm quan lệnh Chu Diên nên vợ là Trưng Trắc, con gái quan lạc tướng ở huyện Mê Linh bèn cùng em gái là Trưng Nhị khởi quân đánh lại Tô Ðịnh. Quân Tô Ðịnh thua phải bỏ chạy về quận Nam Hải. Hai bà bèn xưng làm vua đóng đô ở Mê Linh. 

Qua năm sau vua Quang Vũ nhà Hán sai Mã Viện đem quân qua đánh. Quân của Hai Bà Trưng không đương cự nổi quân thiện chiến của danh tướng nhà Ðông Hán nên Hai Bà phải rút về Cấm Khê nhưng sau đó cũng bị quân Tàu đánh tan. Sử Tàu ghi là Hai bà bị bắt và bị giết, nhưng truyền thuyết thì vẫn cho rằng Hai Bà đã gieo mình xuống sông Hát giang tự trầm vào ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mão (năm 43 Tây lịch). Nay ở làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây và ở bãi Ðồng nhân gần Hà nội đều có đền thờ Hai Bà. Hàng năm cứ đến ngày này thì dân chúng địa phương lại mở hội. 

Mã Viện sau khi tiêu diệt cuộc nổi dậy của dân Việt do Hai bà Trưng lãnh đạo thì liền cho áp dụng nhiều biện pháp cai trị nghiêm khắc để kìm hãm ý chí quật khởi của người Giao Chỉ đồng thời cho truyền bá văn hóa Trung Hoa nhằm mục đích đồng hóa dân bản xứ. Một chính sách cưỡng bức tiêu biểu nhất của Mã Viện là ra lệnh cấm các bộ tộc Việt không được xử dụng trống đồng, vì trống đồng không phải là một vật thường ai cũng có được mà chỉ có các tộc trưởng mới có và như thế trống cũng tượng trưng cho uy quyền của tộc trưởng. Ngoài ra trống đồng còn có một ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống của người dân các bộ tộc Giao chỉ và có lẽ tiếng trống đồng có một ma lực lôi cuốn người dân Việt hành động theo một mục tiêu thiêng liêng nào đó cho nên Mã Viện đã cho lệnh thu gom hết trống đồng hiện có rồi đem đúc thành một cây trụ đồng chôn trên đất Giao chỉ, trên cột có khắc giòng chữ: "Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt" ý nói nếu cây trụ đồng này gãy đổ thì dân Giao chỉ sẽ tuyệt mất giống. 

Tục truyền rằng người dân Việt vì e ngại lời nguyền đó có thể làm dân tộc mình bị diệt vong nên bất cứ người dân Việt nào đi ngang qua chỗ cột đồng cũng ném vào gốc trụ một cục đá để cho cây trụ không thể đổ ngã. Lâu dần lớp đá quăng vào đã phủ kín luôn cây trụ và ngày nay người ta vẫn chưa tìm ra được vết tích cây trụ đồng ấy ở đâu. Cũng từ ấy, dân tộc Việt nam bị người Tàu đô hộ suốt chục thế kỷ nên không còn bao giờ có thể nghe lại được âm thanh của cái trống đồng này nữa, nhưng cái dư âm của tiếng trống này có lẽ vẫn chưa bao giờ dứt trong tâm hồn người dân Việt. 

 
2.-"THÙ NHÀ NỢ NƯỚC" VỚI "ƠN ÐỀN OÁN TRẢ" 

Câu nói nước ta có hơn bốn ngàn năm lập quốc, mà mỗi người trong chúng ta vẫn thường nghe từ lúc mới bắt đầu học lịch sử nước nhà, nếu ngẫm nghĩ lại thì hơn hai ngàn năm đầu thuộc về huyền sử, không biết người dân Việt sống và yêu thương nhau như thế nào, còn như kể từ khi có sử thì dân Việt đã phải trải qua một ngàn năm bị người Tàu đô hộ rồi. Suốt một thời gian dài đằng đẵng sống dưới chế độ cai trị hà khắc và bị bóc lột một cách tàn nhẫn, sự căm hờn tích lũy này đã biến thành mối thù thiên thu để rồi lưu truyền mãi mãi trong lòng mỗi người dân. Ðiều này đã làm cho một ngàn năm tiếp theo dù có giành lại quyền tự chủ, nhưng cái quá khứ sống căm hờn dưới chế độ hà khắc của người Trung hoa không thể nào gột xóa và mối nguy hiểm của kẻ thù phương Bắc thì vẫn lơ lửng trên đầu khiến cho trong lòng người dân Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác lúc nào cũng như mang nặng một mối thù truyền kiếp khôn nguôi. 

Sau mấy lần khởi nghĩa giành quyền tự chủ ngắn ngủi, đến cuối thế kỷ thứ 10, dân Việt nam mới thực sự giành lại được quyền tự chủ lâu dài nhưng lãnh thổ chỉ còn là vùng đất Văn Lang cũ. Người Việt nam dù qua một ngàn năm Bắc thuộc có tập được tính nhẫn nhục để sống còn nhưng đồng thời cũng không làm sao tránh khỏi bị tiêm nhiễm cái thói độc ác từ kẻ cai trị. Chính vì thế mà cứ mỗi lần chống ngoại bang xâm lăng, người dân Việt đều xem đó là một cơ hội để trả thù những bất công áp bức mà kẻ thù đã gây ra cho mình nên lúc có cơ hội vùng lên là lăn xả vào giết quân thù không gớm tay như câu thành ngữ "phân thây uống máu" đã cho thấy cái ý chí căm thù do cảm tính thúc đẩy của người dân Việt cũng rất là tàn bạo.

Tuy nhiên trong khi mà cơ hội trả mối thù chung không có thì những sự uất ức dồn ép của kẻ "thấp cổ bé miệng" kêu trời không thấu không được giải tỏa sẽ được thể hiện bằng thái độ dối trá và những hành động trả thù vặt. Cái tâm lý này đã từng được Nguyễn Du mô tả trong vai Hoạn Thư của truyện Kiều:
 
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao

Cái tâm thức trả thù theo sự thúc đẩy của cảm tính này được thể hiện bàng bạc khắp trong văn học dân gian của ta. Trong câu truyện Tấm Cám, Tấm sau khi bị dì ghẻ và em gái cùng cha khác mẹ hành hạ điêu đứng đủ điều, chết đi sống lại và trải qua mấy lần hóa kiếp cho đến khi trở lại kiếp người thì cũng không quên mối thù đối với kẻ làm hại mình nên đã trả thù bằng cách đã dùng chảo nước sôi để giết Cám lại còn đem xác Cám làm mắm gửi về biếu cho dì ghẻ ăn. Dì ghẻ vô tình nên vẫn ăn ngon cho đến khi hũ mắm gần hết thì mới thấy lòi ra cái đầu lâu con gái mình đành chỉ biết nghẹn ngào uất ức lên mà chết.

Truyện Trạng Quỳnh cũng nói lên cái đặc tính tiêu biểu của người Việt nam là tinh ranh và thích trả thù vặt. Mặc dù chán chế độ vua quan thối nát nhưng Trạng Quỳnh không hành động để phá bỏ cái hệ thống cầm quyền mà chỉ nhằm vào những đối tượng được xem là kẻ gây ra những bất công uất ức trực tiếp cho mình mà trả thù cho bõ ghét hơn là nhằm vào mục đích xây dựng. Chính vì thế mà câu truyện kết thúc về Trạng Quỳnh cũng chỉ là một câu truyện nói lên cái thái độ thụ động và trả thù tiêu cực này.

Sau nhiều lần nhà chúa bị Trạng Quỳnh châm chọc đến lúc nhà chúa không còn chấp nhận nổi đành phải tìm cách giết Trạng Quỳnh một cách khéo léo bằng cách gọi Trạng Quỳnh vào chầu và ban cho một bát yến có thuốc độc ép Trạng phải ăn. Trạng Quỳnh thì cũng đã biết con đường mình đi có ngày sẽ dẫn đến kết cuộc này nên đã chuẩn bị dặn trước với vợ con là nếu Quỳnh qua nhà chúa về mà chết thì không được phát tang mà phải đợi bên nhà chúa phát tang rồi thì mới được làm ma chay cho mình. Do đó sau khi ăn bát yến thì Trạng thấy khó chịu trong người nên xin cáo từ. Quân hầu võng Trạng về đến nhà thì Trạng cũng đã tắt thở nhưng người nhà vẫn cứ để Trạng nằm yên trên võng giả như đọc sách. Nhà chúa cho người dọ thám thấy bên nhà Trạng mọi sinh hoạt vẫn bình thường và Trạng vẫn nằm đọc sách nên nhà chúa nổi giận sai nhà bếp đem loại thuốc độc đã dùng giết Trạng bỏ vào bát yến cho mình nếm thử. Không ngờ vừa nếm xong thì chúa cũng thấy khó chịu trong người rồi tắt thở. Thế là: 

Trạng chết, Chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn 

Ngay cả trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã mô tả Kiều như một con người chỉ biết xử sự theo những cảm tính thông thường của người dân Việt cho nên khi Kiều nhờ thanh thế của Từ Hải mà có dịp báo thù thì cũng đã thực hiện ngay cái việc ơn đền oán trả với những kẻ đã gây nên ân oán với Kiều trước đây. Nhưng cũng vì Kiều chỉ xử sự theo cảm tính chứ không phải do lý trí suy luận cho nên dễ dàng tha cho Hoạn Thư khi nghe Hoạn Thư tự biện hộ một cách bùi tai nhưng lại giết những kẻ thừa hành như Ưng, Khuyển, còn cái nguyên nhân gây ra cái ác đầu tiên cho gia đình đến nỗi Kiều phải bán mình chuộc cha là cả một chế độ quan lại tham nhũng thối nát thì lại không hề động chạm đến. Cũng vì thế mà sau này Kiều cũng đã khuyên Từ Hải quy phục triều đình khi thấy triều đình dùng chiêu thức dụ hàng khiến cho Từ Hải mới phải chết đứng giữa trận tiền vì sự tráo trở của Hồ Tôn Hiến. 

Do sự thù hận truyền kiếp này đã đi vào tâm thức khiến cho khi sống với nhau, dù có hiền hòa thương yêu vẫn có những lúc hận thù nổi dậy để xoá nhòa đi cái bản chất nhân hậu của mình. Khi mà những chuyện tương tranh cá nhân tạo nên thù hận thì con người lại sẵn sàng chạy theo một thế lực nào đó có thể giúp mình có cơ hội trả mối thù riêng. Cách hành xử do cảm tính thúc đẩy này đã khiến cho suốt một ngàn năm tự chủ, người dân Việt đã không thể đoàn kết để cùng xây dựng, trái lại đã tạo ra không biết bao nhiêu lần cảnh nồi da xáo thịt và hành động trả thù vặt hầu như đã trở thành một nếp hành xử truyền thống. 
 
Huyền thoại Việt nam cũng có một câu truyện tiêu biểu cho mối tương tranh này, đó là câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh. Vào đời vua Hùng thứ 18 có một công chúa rất xinh đẹp nên được hai vị thần sông và thần núi để ý muốn cưới làm vợ. Vua Hùng thấy cả hai vị thần đều là kẻ siêu phàm nên không biết gả con cho ai bèn ước hẹn trong một ngày vị thần nào mang sính lễ đến trước thì sẽ lấy được công chúa. Sơn Tinh mang sính lễ đến trước nên được vua Hùng gả công chúa cho và đem về ở núi Tản viên. Thủy Tinh đến chậm nên khi thấy Sơn tinh đã cưới được Mỵ nương và đưa về núi thì lấy làm tức giận bèn làm ra mưa to gió lớn dâng nước lên cao và sai các loài thủy quái tiến lên núi để chiếm lại Mỵ Nương. Sơn Tinh bèn sai hổ báo lăn gỗ đá xuống, lại tạo ra sấm sét đánh vào đám thủy quái và làm cho núi cao lên khiến cho Thủy Tinh không làm gì được. Từ đó Sơn tinh và Thủy tinh trở thành thù địch và mối hận tình này kéo dài triền miên khiến cho hàng năm cuộc chiến lại tái diễn và sự kiện này vẫn cứ lặp đi lặp lại mãi không bao giờ dứt. 
 
Nhiều người cho rằng huyền thoại này nhằm giải thích hiện tượng lũ lụt do sông Hồng gây ra hằng năm tại Bắc Việt. Dù chủ đích của người đặt ra câu truyện huyền thoại này là nhằm giải thích một hiện tượng thiên nhiên đi nữa, nhưng xét về mặt ý nghĩa thì đây cũng có thể coi như là biểu tượng cho cái khuynh hướng dùng bạo động để giải quyết những tương tranh vì quyền lợi cá nhân tiềm ẩn trong tâm hồn dân tộc vậy. 
 
Cái niềm tự hào bốn ngàn năm văn hiến đã bao lần hoen ố vì những lần nội chiến tương tàn mà tiêu biểu nhất là giai đoạn Nam Bắc triều giữa nhà Lê và nhà Mạc, cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh và cuộc chiến tranh giữa nhà Nguyễn Tây sơn với nhà Nguyễn gia miêu và mới đây là cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Sau mỗi lần nội chiến kết thúc là giai đoạn hành động trả thù của kẻ chiến thắng. Còn người sống của phe bại trận bao giờ cũng lãnh không biết bao nhiêu sự trừng phạt của kẻ chiến thắng một cách dã man và tàn bạo. 
 
Cũng vì cách suy nghĩ và hành động theo cảm tính mà tuy Nguyễn Ánh có thống nhất được giang san nhưng không thống nhất được lòng người khiến cho đất nước bị người Pháp xâm chiếm. Rồi sau đó qua gần một thế kỷ bị Tây đô hộ cho đến giữa thế kỷ 20, khi trào lưu nhân loại bước vào kỷ nguyên tự do dân chủ thì người dân Việt cũng vùng lên mơ ước làm một cuộc cách mạng giải phóng con người, nhưng cũng vì cái mối thù tiềm ẩn ấy đã khiến cho con người bị mê hoặc vào trong cơn lốc của chủ nghĩa lấy căm thù làm động cơ tranh đấu cho một xã hội lý tưởng không tưởng. Chính vì thế mà khi vận động làm cách mạng, thay vì phát triển tinh thần tự do và dân chủ và tôn trọng nhân quyền, người ta lại chỉ biết tìm cho ra những đối tượng được gán cho là kẻ thù để mà hô hào tiêu diệt cho thoả mãn những uất ức chất chứa ở trong lòng. 
 
Hình như người dân Việt nào cho dù có hiền lành đến đâu thì cũng có những lúc thấy giòng máu thù hận sôi sục trong người. Chẳng thế mà nhạc sĩ Văn Cao, một con người mơ mộng hiền lành với những giấc mơ của các vì sao trong các nhạc phẩm Thiên Thai, Trương Chi, nhưng lúc say mê với cách mạng cũng đã viết lên những câu như : "Thề phân thây uống máu quân thù..."  và đó lại là lời của bài Quốc ca của một nước. Còn nhạc sĩ Phạm Duy, tác giả bản Tình Ca nổi tiếng, thì vào thời còn đi theo kháng chiến chống Pháp cũng đã sáng tác rất nhiều bản nhạc mà lời lẽ đều nói lên cái ý chí căm thù của người dân Việt "... Ði là đi quyết chiến, đi là đi quyết thắng, đi là mang mối thù thiên thu..." (Xuất quân - Phạm Duy) "...Bao oan khiên đang về đây hú với gió, là hồn người Nam nhớ thù..." (Chiến sĩ vô danh - Phạm Duy) hay là nhắc đến cái món nợ xương máu như trong bài Nợ Xương máu cũng của Phạm Duy, và còn không biết bao nhiêu bản nhạc của nhiều nhạc sĩ khác sáng tác trong trong thời kỳ này không ít thì nhiều đều có những lời lẽ khích động cái mối căm thù tiềm ẩn này.
 
Chính vì biết lợi dụng một cách tinh vi cái cảm tính căm thù này mà người Cộng sản đã lèo lái dân tộc Việt Nam đi vào con đường bế tắc của một chủ nghĩa không tưởng đã hơn nửa thế kỷ nay. Vì vong thân cho lý tưởng Cọng sản nên họ đã bắt buộc phải tiêu diệt người Quốc gia đối lập, và để thực hiện ý đồ đó, họ chỉ cần khôn khéo áp dụng cái thủ đoạn ném đá dấu tay và gán cho những người Quốc gia hay đối lập cái nhãn hiệu kẻ thù có nợ máu với nhân dân với Tổ quốc là đủ để khơi động cái ý chí trả thù trong lòng người dân để mà sẵn sàng tiếp tay cho Cộng sản tiêu diệt kẻ nào đối lập với họ. 
 
Mặc dù người Cộng sản chủ trương vô thần và triệt hạ tôn giáo, nhưng khi muốn vận dụng sức mạnh dân tộc, họ đã khéo lồng vào hình ảnh Tổ quốc thiêng liêng để mê hoặc người dân khiến cho không còn thấy cái bản chất duy vật vong bản của chủ thuyết Cộng sản. Khai thác cái cảm tính yêu điều thiện ghét điều ác và cái ý tưởng "ơn đền oán trả" của người bình dân, người Cộng sản đã khéo biến Ðảng thành vị thần cứu tinh của dân tộc và các thế lực đối lập là kẻ ác phải đền tội là đủ xách động quần chúng tiêu diệt bất cứ ai được coi là kẻ thù của người Cọng sản. Cách nói của người dân miền Bắc dưới chế độ Cọng sản trước đây "nhờ ơn Ðảng, nhờ ơn Bác..." cũng như sự biện minh cho những hành động dã man bằng cái lý lẽ phải trừng trị những kẻ gây tội ác và có nợ máu với nhân dân đủ cho thấy người Cộng sản đã khai thác cái tâm lý này của người dân Việt một cách vô cùng thâm độc. 
 
Khi người Quốc gia chống lại Cộng sản thì cái ý thức về Tự do Dân chủ vẫn chỉ là một quan niệm rất lờ mờ nhưng cái động cơ trực tiếp thì thường vẫn là do sự thù hận. Vì Cộng sản giết người thân của ta, tàn ác với gia đình ta mà mang một cái thù nhà phải báo. Chính vì chỉ hành động trong cái vòng lẩn quẩn của ân oán và thái độ lừng chừng giữa thủ đoạn và đạo đức mà người Quốc gia cứ bị lúng túng trong cách đối phó với người Cộng sản và không phát huy được cái lý tưởng của mình. Rồi cũng vì cái bản tính mưu cầu quyền lợi thiển cận và cảm tính thù hằn cá nhân mà người Quốc gia cũng chỉ biết đả phá nhau để tự làm suy yếu mình, thua mưu Cộng sản và tạo cơ hội cho các thế lực ngoại bang thao túng. 
 
Rồi cuộc qua phân lại kéo theo cuộc nội chiến do những thế lực quốc tế đang tranh chấp nhau về mặt ý thức hệ chủ động cho nên sau hai thập niên chiến tranh băng hoại đến lúc phe miền Nam bị các thế lực quốc tế bức tử thì phe miền Bắc tự cho mình là kẻ chiến thắng cũng kết án tất cả hàng ngũ phe miền Nam là ngụy: từ ngụy quyền, ngụy quân và luôn cả dân cũng là ngụy dân. Mà đã là ngụy thì phải lãnh nhận sự trừng phạt của kẻ tự cho mình là chính. Xưa Gia Long từng quật mồ Nguyễn Huệ và theo truyền thuyết thì đầu lâu còn bị xiềng xích và đem giam vào ngục tối. Ngày nay thì sự trả thù đi đến chỗ tinh vi hơn nên thay vì cảnh tắm máu của thời xưa, người ta dùng hình thức gọi là "học tập cải tạo" cho có vẻ nhân đạo nhưng thực chất vẫn là một cuộc trả thù bằng cách giết lần giết mòn trong lặng lẽ. Sự căm thù đã thể hiện tới mức không còn nhân tính nhưng lúc nào cũng được ngụy trang dưới những mỹ từ rất tình người. Ðiều này cũng lại khiến cho đất nước tuy có thống nhất nhưng lòng người thì không thống nhất. 
 
Trong bài hịch Bình Ngô Ðại Cáo của Nguyễn Trãi có hai câu thường được người đời sau viện dẫn như một sách lược khôn ngoan và đúng đắn của dân tộc: 

Lấy chí nhân mà thay cường bạo
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn 

Trong bao nhiêu năm qua, điều này có được giới lãnh đạo đem ra thực hiện để đối phó với kẻ thù khác chủng tộc và cường thịnh hơn mình vì cho dù có đuổi được quân xâm lăng nhưng cái gốc của kẻ thù thì vẫn vững như bàn thạch và cái mối đe dọa của kẻ thù thì vẫn lơ lửng trên đầu nên phải dùng kế sách đó để cầu hòa. Riêng đối với người anh em một nhà với nhau mà hễ đã coi nhau như kẻ thù thì một khi bên nào bại trận đều bị bên kia coi là giặc thì chính sách này chưa bao giờ được áp dụng thực sự. 
 
Vậy thì phải chăng vì tập quán suy nghĩ và hành xử theo cảm tính đó mà người dân Việt qua bao đời nay lúc nào cũng yêu mến mảnh giang sơn của mình, lúc nào cũng muốn làm cho dân tộc mình rạng rỡ khắp năm châu, nhưng trái lại vẫn không bao giờ có thể cùng nhau thực tâm đoàn kết để xây dựng đất nước thành một quốc gia hùng cường khiến cho đất nước lúc nào cũng bị kẻ thù phương Bắc uy hiếp nếu không thì cũng bị các thế lực siêu cường khác lũng đoạn. 

ĐOÀN VĂN KHANH

No comments:

Post a Comment