Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Monday, February 25, 2013

Từ Đáy Giếng Nhìn Trời

Tạp luận 
 
1.- VỀ TẮM AO TA 

Tâm lý thông thường của con người là luôn luôn muốn chiếm hữu, và chỉ khi nào con người có được sự sở hữu thì con người mới thực sự thấy mình hiện hữu qua sự tự do thể hiện ý muốn của mình trên vật sở hữu đó.

Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

Nghe hai câu ca dao trên không ai trong chúng ta là không nhận ra cái hàm ý tự hào rằng mình cũng có một vật sở hữu riêng, đồng thời cũng biểu lộ mối cảm tình gắn bó với vật sở hữu riêng đó, cho dù vật sở hữu của mình nếu đem ra so sánh có thể không được bằng vật do người khác sở hữu.
Nếu hiểu rộng ra trong một phạm vi bao quát hơn thì cái ao nhà ở đây cũng có thể dùng để chỉ toàn thể nền văn hóa và lịch sử của một dân tộc. Trong tâm tưởng của mỗi người dân Việt không ít thì nhiều cũng có mang chút tự hào về dân tộc mình. Tuy nhiên khi nhìn lại thực trạng cái ao nhà, có lẽ chúng ta cũng không thể nào không suy tư thắc mắc.

Lẽ ra với niềm tự hào này, dân tộc Việt nam nếu không tạo cho mình thành một quốc gia hùng cường, có một nền văn hóa cao, thì ít ra trong kỷ nguyên tiến bộ này dân tộc Việt nam cũng phải có một cuộc sống thanh bình thịnh vượng. Nhưng khi nhìn vào thực tế thì lịch sử Việt nam lại là lịch sử của một dân tộc trải qua không biết bao thời kỳ bị đô hộ, xã hội thì thường nhiễu nhương, ly loạn và thống khổ. So với các nước trong khu vực cùng một điều kiện thì hầu hết các nước này đều có một đời sống chính trị tiến bộ và một đời sống kinh tế khả quan, riêng Việt nam vốn tự hào có một nền văn minh lâu đời và một quá trình lịch sử chống xâm lăng hiển hách thì trái lại, dân trí vẫn thấp kém, đất nước vẫn nghèo nàn, và xã hội vẫn là lạc hậu. Phải chăng như vậy là dân Việt nam đã sống với những nghịch lý?
 
Mặc dù vẫn tự hào là một dân tộc đã trải qua bốn ngàn năm lập quốc kể từ khi Quốc tổ Hùng vương bắt đầu dựng nước, nhưng xét về phương diện lịch sử thì hai ngàn năm đầu chưa có sử nên những gì lưu truyền lại chỉ là huyền thoại. Kế đến là thời đại bị Trung hoa đô hộ hơn một ngàn năm, thường được gọi là thời Bắc thuộc. Thời kỳ này Việt nam cũng chưa có sử mà chỉ mới có một số biến cố được người Trung hoa ghi lại trong sử Trung quốc nên về mặt sinh hoạt của dân chúng trong xã hội cũng rất mù mờ. Tuy nhiên theo tương truyền thì đây là thời kỳ đen tối và bi thảm nhất của dân tộc Việt vì phải sống đọa đày dưới sự cai trị của đám quan lại người Tàu tham ô và tàn ác.
 
Trong thời gian này tuy vẫn có nhiều lần người dân Việt nổi lên giành lại quyền tự chủ nhưng cũng mới chỉ là những giai đoạn ngắn ngủi và cách xa nhau hằng thế kỷ. Vào thế kỷ đầu của công nguyên đã có cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng đánh đuổi thái thú Tô Ðịnh của nhà Tây Hán và lên làm vua được 3 năm. Hai trăm năm sau có bà Triệu Ẩu cũng đã chiêu tập binh mã chống lại nhà Ðông Ngô, tuy rằng đại sự không thành nhưng tên tuổi vẫn còn lưu hậu thế làm niềm tự hào cho phụ nữ Việt nam. Câu tục ngữ "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh" có lẽ phát xuất từ những sự kiện lịch sử này.
 
Sau đó còn có những cuộc khởi nghĩa khác với những thời kỳ tự chủ ngắn ngủi như của Lý Bôn vào thế kỷ 6; của Mai thúc Loan, Phùng Hưng trong thế kỷ 8. Thời đại tự chủ thực sự chỉ bắt đầu kể từ khi Ngô Quyền phá được quân nhà Hán và xưng vương vào thế kỷ 10, nhưng cũng phải đến khi Ðinh bộ Lĩnh dẹp xong loạn Thập nhị Sứ quân và lập ra nước Ðại cồ Việt, nước nhà mới đi vào kỷ cương. Còn sử sách thì mãi đến cuối thế kỷ 13 đời vua Thánh tông nhà Trần mới có Lê văn Hưu soạn ra bộ Ðại Việt sử ký là bộ quốc sử chính thức đầu tiên.
 
Ðây có lẽ là thời kỳ dân Việt nam bắt đầu thấy mình thể hiện được niềm tự hào dân tộc qua những chiến thắng quân sự. Suốt gần 10 thế kỷ, dân Việt nam chẳng những giữ vững được giang sơn của mình trong những lần đối đầu với kẻ thù phương bắc qua những trận phá Tống, cự Nguyên, đuổi Minh và diệt Thanh, mà còn mở rộng thêm bờ cõi trong những lần Nam tiến, xóa tên vương quốc Chiêm thành và chiếm luôn một phần đất của Chân lạp.
 
Tuy nhiên về mặt tư tưởng thì sau mấy ngàn năm kể từ thời Hùng vương bắt đầu lập quốc, tiếng Việt vẫn chưa phát triển thành ngôn ngữ viết mà chỉ có ngôn ngữ nói, và người dân Việt cũng chưa phát huy được một học thuyết nào có hệ thống dựa trên nền tảng siêu hình nên sau khi đã giành lại được quyền tự chủ, các triều đại vua Việt nam từ Ðinh Lê Lý Trần trở đi vẫn phải dùng chữ Hán và lấy văn hóa Tàu làm gốc cho mình bắt chước. Do đó mà trong lãnh vực chính trị xã hội, mặc dù thoát khỏi sự cai trị của người Tàu nhưng ảnh hưởng của nền văn hóa Trung quốc vẫn hiện diện trong mọi lãnh vực của đời sống khiến cho cái tư tưởng thần phục Trung hoa như ăn sâu vào tâm thức đến nỗi chỉ nhìn thấy Trung hoa là văn minh cường thịnh, còn các dân tộc khác đều kém hèn, và mỗi khi có nội biến, giới cầm quyền lại hay có thái độ chạy tới cầu cạnh Trung quốc, và đó cũng là cái cớ cho Trung hoa can thiệp vào nội bộ và lại đem quân qua nhằm xâm chiếm vào thế kỷ 15 và thế kỷ 18.
 
Ngoài ra do khuynh hướng chỉ biết đoàn kết trong cơn hoạn nạn, còn khi quyền lợi đến tay thì lại hay nảy sinh đầu óc mưu mô để thủ lợi thiển cận nên dễ sinh ra chia rẽ khiến cho cái nạn tranh giành quyền lực thường xảy ra trong các triều đại, gây cảnh binh đao, do đó mà dân tộc Việt nam không mấy khi được hưởng thanh bình thật sự vì nếu không lo chống ngoại xâm thì cũng có những thời kỳ nội loạn, mà đáng kể nhất là cuộc Nam Bắc phân tranh khởi đầu giữa nhà Lê và nhà Mạc vào nửa đầu thế kỷ 16, rồi tiếp theo là thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh và chia cắt kéo dài tới đầu thế kỷ 19 mới quy về một mối trong tay nhà Nguyễn.
 
Tuy đất nước có thống nhất nhưng lòng người thì lại chia rẽ do những ân oán của những lần nội chiến tương tàn. Tinh thần hoài Lê vẫn còn ấp ủ trong lòng nhiều người dân miền Bắc khiến cho nhiều kẻ lợi dụng danh nghĩa phò Lê để nổi dậy chống lại triều đình. Trong Nam thì do chính sách bạc đãi công thần cùng vớiø chủ trương cấm đạo và bài xích người Tây phương cũng như thái độ miệt thị người Chân lạp đã tạo duyên cớ cho nhiều vụ nổi loạn. Trong khi đó triều đình nhà Nguyễn lại noi gương Trung quốc vẫn tự hào với nền văn hóa lâu đời của mình nên đã không nhận thức được trào lưu tiến bộ theo khoa học kỹ thuật của thời đại nên đã không chịu canh tân đất nước. Do đó khi Pháp đem quân xâm chiếm Việt nam, nhà Nguyễn đã không chống giữ được đành mất quyền tự chủ và dân tộc Việt nam lại rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ.
 
Sau khi thế chiến 2 chấm dứt, theo với phong trào giải phóng dân tộc của các xứ thuộc địa bộc phát khắp nơi, dân Việt nam cũng đã vùng lên giành độc lập, nhưng cuộc tranh đấu chống thực dân Pháp của toàn dân lại bị sa lầy vào một cuộc chiến tranh ý thức hệ do tình trạng phân hoá và tranh chấp của giới lãnh đạo và sự giật dây của những thế lực từ bên ngoài. Ðất nước lại bị chia cắt theo ý đồ của ngoại bang, và tiếp theo đó là một cuộc chiến tương tàn làm cho đất nước bị tàn phá, hàng triệu người dân Việt phải thương vong bằng đủ loại vũ khí viện trợ của các cường quốc đang đối đầu nhau trên thế giới.
 
Do tính chất phức tạp của cuộc chiến và nhất là khi có sự tham chiến trực tiếp của Hoa kỳ thì hầu như người dân Việt không còn nhận định được ý nghĩa của cuộc chiến. Và mặc dù sự kéo dài những nỗi đau thương do các hành động tàn bạo trong chiến tranh đã khiến cho lòng người càng ngày càng thêm chán nản, oán ghét cuộc chiến, nhưng cũng vì cái truyền thống tự hào làm cho mê hoặc khiến cho người dân Việt vẫn chỉ biết lao đầu vào chiến tranh chứ không chịu cùng nhau tìm ra một lối thoát. Cuối cùng khi người Mỹ buông tay thì cả nước đành rơi vào vòng kiềm tỏa của ý thức hệ Cộng sản. Những người không thể sống dưới chế độ này đành phải tìm cách chạy bỏ quê hương đi làm dân tị nạn ở xứ người.
 
Một ngàn năm bị người Tàu đô hộ và mưu toan đồng hóa nhưng người dân Việt vẫn kiên trì với dòng giống của mình để không bị diệt vong mà cuối cùng còn khôi phục được quyền tự chủ. Không những thế, người dân Việt lại còn đồng hoá ngược trở lại những người Trung hoa sang sinh sống ở Việt nam, cũng như đã đồng hóa trọn Chiêm thành và một phần dân Khmer của đất Chân lạp, chứng tỏ dân Việt nam có một khả năng sinh tồn và bành trướng rất mạnh, đó là điều người dân Việt vẫn tự hào. Tuy nhiên về phương diện tư tưởng và lãnh đạo chính trị, dân tộc Việt nam vẫn chưa bao giờ thoát khỏi áp lựcï của Trung quốc cũng như suốt hai thế kỷ qua liên tiếp bị các thế lực Tây phương khống chế hoặc khuynh đảo. Còn như về mặt tổ chức xã hội và kinh tế, dân tộc Việt nam hầu như chưa bao giờ thành công trong việc xây dựng cho mình thành một quốc gia hòa bình và thịnh vượng, mặc dù vẫn luôn luôn tự hào về bốn ngàn năm văn hiến của mình.
 
2.- ẾCH NGỒI ÐÁY GIẾNG

Lịch sử chỉ thành hình khi con người sống thành quốc gia mà cơ chế quốc gia được tạo thành và duy trì là nhờ vào sự kết hợp của hai yếu tố: kẻ cầm quyền và người dân. Tuy nhiên sự tương quan giữa hai yếu tố này không phải lúc nào cũng đồng thuận mà đôi khi vẫn xảy ra những hiện tượng đối kháng hay mâu thuẫn như lời mô tả qua câu ca dao:

Quan có cần nhưng dân chưa vội
Quan có vội, quan lội, quan sang

Mặc dù người ta vẫn thường nói: "Ý dân là ý Trời" nhưng thông thường, kẻ cầm quyền tức là kẻ cai trị bao giờ cũng muốn áp đặt ý mình lên trên ý của người dân là kẻ bị cai trị. Có lẽ vì thế mà việc trị loạn của một nước xưa nay người ta vẫn hay quy kết sự thành bại cho tầng lớp lãnh đạo. Tuy nhiên nếu đứng trên bình diện xã hội mà xét thì một quốc gia nào đó tiến hóa hay lạc hậu, dân tộc trường tồn hay bị diệt vong, không phải chỉ do nơi tài sức hay ý chí của một cá nhân hay một tập thể nhỏ tạo ra mà còn cần đến ý chí và hành động chung của cả một dân tộc. 

Một cá nhân có thể làm anh hùng hay một tập thể nào đó có thể khuynh đảo lịch sử trong một giai đoạn, nhưng xã hội diễn tiến theo chiều hướng nào là do nơi cái tinh thần của dân tộc đó.

Nhiều người khi nhìn vào tấm gương nước Nhật thường cho rằng nước Nhật sớm thoát ly khỏi cảnh một quốc gia lạc hậu của thế kỷ 19 để trở thành một quốc gia tân tiến trong thế kỷ 20 là nhờ có Minh Trị Thiên hoàng biết canh tân đất nước. Nhưng nếu chỉ có một mình vua nước Nhật có ý thức về vấn đề mà không có cái tinh thần của người dân Nhật cùng hợp sức biến đổi thì chưa chắc nước Nhật đã trở thành hùng cường. Và mặc dù Nhật đã phải đầu hàng Ðồng minh trong trận Thế chiến 2, nước Nhật bị quân đội Mỹ chiếm đóng, nhưng do cái tinh thần tự hào của người dân Nhật được thể hiện ra bằng những hành động thiết thực và hợp lý mà nước Nhật đã sớm phục hồi được quốc gia, giữ vững được cái uy thế của mình trước kẻ thắng, và trở thành một quốc gia phát triển mạnh về kinh tế như hiện nay.
 
Nhìn lại lịch sử Việt nam về mặt dựng nước và giữ nước thì trong quá khứ cũng đã từng có những anh hùng làm nên sự nghiệp hiển hách nhưng ngược lại, về mặt tổ chức kinh tế thì dù là thời sống trong nền văn minh bộ lạc hay lúc đã chuyển sang nền văn minh nông nghiệp, con người vẫn phải gắn liền với thiên nhiên và lệ thuộc thiên nhiên theo kiểu:

Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp

Do thái độ thụ động này mà trong tổ chức xã hội, con người cũng có khuynh hướng chỉ muốn duy trì cái trật tự có sẵn hơn là tìm kiếm một trật tự mới nên mỗi khi xuất hiện một nhân tài nào đó có óc sáng kiến hay những tư tưởng tiến bộ muốn đem ra áp dụng để canh tân xã hội thì lại thường không có sự đồng lòng của giới lãnh đạo hoặc thiếu sự hưởng ứng của quần chúng nên không bao giờ thực hiện được. Rốt cuộc nhân tài tuy có nhưng cũng đành mai một.

Năm 1945, do tình hình cáo chung của các chủ nghĩa thực dân phát xít trên thế giới đã tạo điều kiện cho giới trí thức tiến bộ của Việt nam đứng ra lãnh đạo toàn dân đoàn kết khởi nghĩa giành độc lập và tiến tới làm một cuộc cách mạng toàn diện để biến đổi đất nước, tưởng chừng lịch sử đang mở ra cho dân tộc Việt nam một vận hội mới đầy sáng sủa nhưng rốt cuộc dân tộc Việt nam không những bỏ lỡ cơ hội mà còn lâm vào một tình trạng tang thương bi đát, mà nguyên nhân chẳng qua cũng chỉ là do cái nghịch lý giữa tâm lý tự hào và mặc cảm bất lực trước thực tế xã hội đói nghèo đã tạo ra những mâu thuẫn sâu sắc khiến cho con người không còn biết phân biệt đâu là cái lẽ phải hợp lý cho mọi người cùng theo mà chỉ còn biết vong thân theo những lý thuyết ngoại lai để rồi cứ bị các nước lớn xô đẩy vào chiến tranh.
 
Bốn ngàn năm qua dân tộc Việt nam vẫn tồn tại nhưng lịch sử dân tộc Việt nam thì lại đầy dẫy thương đau, còn xã hội thì luẩn quẩn trong cái vòng lạc hậu. Chính vì thế mà cứ mỗi lần bị xâm lăng hay nội chiến, xã hội thường đổ nát và băng hoại, và trầm trọng nhất là trong giai đoạn của cuộc chiến tranh Quốc Cộng vừa qua. Nhìn vào thực trạng xã hội Việt nam trong thời gian gần đây, nhiều người có tâm huyết với tiền đồ của dân tộc đã lên tiếng cho rằng chính những nền văn hoá ngoại lai đã làm phá sản con người Việt nam và nếu muốn xây dựng lại xã hội Việt nam, cần phải quay trở về với nền văn hóa truyền thống.
 
Nhưng thế nào là nền văn hóa truyền thống?
Một số người khi muốn phát huy nền văn hóa dân tộc đã có khuynh hướng quá đề cao dân tộc Việt, nên thường đi quá xa như là cho rằng nền văn minh cổ của dân Bách Việt ở miền nam Trung hoa chính là nền văn minh cổ của dân tộc Việt nam hiện nay.
 
Vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt nam cho đến nay vẫn chưa có thể xác định được một cách rõ ràng. Hầu hết các nhóm Bách Việt đều bị Hán hóa, ngoại trừ một nhóm nhỏ di dân xuống vùng châu thổ sông Hồng là vẫn còn tồn tại, nhưng cũng đã có sự pha trộn với những chủng tộc khác để tạo thành dân tộc Việt nam. Do đó mà những khám phá gì các nhóm Bách Việt khác đã tìm ra trước đó đều thuộc Trung quốc và đã đóng góp thành nền văn minh Trung hoa chứ không phải của nền văn minh Việt. Vậy thì khi nói đến văn minh Việt nam, thiết tưởng chúng ta cũng chỉ nên nói những gì thuộc nhóm dân tộc Việt đến sinh sống trên dải đất thuộc sông Hồng mà thôi.
 
Dân tộc nào cũng có một nền văn hóa riêng. Vì văn hóa được gắn liền với dân tộc cho nên một dân tộc sẽ biến mất nếu nền văn hóa của dân tộc ấy không còn. Có thể nói lịch sử dân tộc Việt nam là lịch sử của một dân tộc đấu tranh trường kỳ để sống còn theo cái bản sắc của nền văn hóa của mình. Nhưng nói thế không có nghĩa là văn hóa chỉ toàn là tinh hoa mà còn bao gồm cả những cái xấu cái dở của một dân tộc. Ngoài ra một nền văn hóa muốn được tồn tại phải có tính sinh động do đó không có nền văn hóa nào mãi mãi mang tính thuần nhất khi phải va chạm với những nền văn hóa khác.
 
Trước khi bị người Tàu đô hộ, người dânViệt ở vùng này cũng đã có một nền văn minh mà nét biểu hiện đặc thù là cái trống đồng của các bộ lạc Giao chỉ. Trống đồng bắt đầu có từ thời nào và mục đích của việc xử dụng trống đồng cũng như ý nghĩa của các hình hoa văn khắc trên trống là những vấn đề mà các nhà khảo cổ ngày nay vẫn phải còn nghiên cứu. Tuy nhiên cái trống đồng có lẽ mang một ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống tinh thần của người dân Việt cho nên khi người Trung hoa qua xâm chiếm đất Văn lang, đã thu sạch hết trống đồng và người dân Việt không bao giờ còn được dùng trống đồng nữa.
 
Suốt một ngàn năm Bắc thuộc, người Trung hoa luôn áp đặt nền văn hóa Hán tộc lên mọi lãnh vực của đời sống từ vật chất tới tinh thần để đồng hóa dân bị trị, nhưng người dân Việt vẫn tỏ ra ngấm ngầm chống lại kẻ thống trị cho nên về mặt văn hóa dù có phải chấp nhận những hình thức ngoại lai, trong tâm tưởng người dân Việt vẫn không bao giờ xóa bỏ cái bản chất riêng của mình. Do đó mà trống đồng có im tiếng nhưng trong tiềm thức người dân Việt âm vang của tiếng trống đồng vẫn không bao giờ dứt.
 
Vì cứ phải sống trong nỗi phập phồng lo sợ trước mối đe dọa có thể bị người Tàu tàn sát bất cứ lúc nào đã khiến cho người dân Việt thường coi trọng sự sống hơn của cải vật chất, như được bày tỏ qua những câu tục ngữ: "Bỏ của chạy lấy người", hoặc "Một mặt người là mười mặt của." Có lẽ do từ cái nhân sinh quan có tính cách hiện sinh và hiện tượng này mà người dân Việt mới có quan niệm không mấy quan tâm đến việc biến đổi xã hội mà chỉ nhằm giải quyết những nhu cầu căn bản cấp thời và có tính cách hiện tượng.
 
Tuy nhiên vì để có thể bảo vệ sự sống của mình, người dân Việt cũng đã biết co cụm trong những ngôi làng và luôn luôn bám lấy làng để sống. Cũng từ đó làng trở thành cái trung tâm duy trì những tập tục lề thói riêng biệt, và nuôi dưỡng nền văn hóa Việt tiếp tục tồn tại.
 
Nếu hình ảnh ngôi làng với lũy tre xanh, cái ao bèo, mái đình cong và những con người cùng chung một thân phận đùm bọc lấy nhau gợi lên cho người dân Việt một cảm tình tha thiết thì cái làng cũng là nơi tạo cho con người có một nếp suy nghĩ và hành xử đóng khung và gần như rập khuôn, không bao giờ có sự thay đổi theo kiểu:

Ông Nỉnh ông Ninh
Ði đến đầu đình lại gặp ông Nang
Ông Nảng ông Nang
Ði đến đầu làng lại gặp ông Ninh

Do lối sống co cụm, dựa dẫm vào nhau này tiếp tục hết thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành cái nề nếp ăn sâu vào tâm khảm đã làm cho người dân Việt thường không muốn những sự đổi thay làm xáo trộn nếp sống đã trở thành quen thuộc, theo kiểu nói "đời ông cha ta làm sao thì bây giờ con cháu cứ theo đó mà làm", lâu dần trở thành như cái truyền thống của dân tộc không có gì lay chuyển nổi.

Phải chăng do khuynh hướng muốn duy trì cái nếp cũ của mình nhưng đồng thời cũng không tránh được áp lực của những nền văn hóa khác có nhiều ưu thế hơn tác động vào đời sống nên người dân Việt đã phải dung hòa nhiều yếu tố mâu thuẫn để tạo thành một nền văn hóa có chứa đựng nhiều nghịch lý? Chính vì thái độ phải chấp nhận những nghịch lý đểù bảo tồn cuộc sống của mình mà lâu dần người dân Việt trở thành tiêu cực, không phát triển được cái tinh thần hợp lý theo lý trí nên không thống nhất được tư tưởng và hành động, điều kiện cần thiết để có thể tổ chức một cách hữu hiệu xã hội thành tiến bộ. 

Trong bài Tựa của cuốn Việt nam Sử lược, tác giả Trần trọng Kim có viết như sau: "Sử là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một nước, những trình độ tiến hoá của một dân tộc."
 
Vậy thì khi nhìn vào lịch sử dân tộc, muốn hiểu được thái độ dân tộc tự hào và thực trạng xã hội chậm tiến đầy mâu thuẫn này có lẽ chúng ta cũng nên thử nhìn vấn đề trên bình diện triết học, thử tìm kiếm những nguyên nhân sâu xa, tiềm ẩn, đã âm thầm tác động trên con người, chủ thể của mọi hành vi xã hội và là tác nhân của những biến cố lịch sử.
 
Có thể là trong những điều tin tưởng, trong nề nếp sinh hoạt thường ngày, trong phong tục tập quán, cũng như trong vô số câu ca dao tục ngữ và những câu truyện dân gian mà người dân Việt vẫn truyền tụng với nhau qua bao đời nay vẫn tiềm tàng những điều nghịch lý mà thông thường chúng ta ít để ý tới. Tuy nhiên cái tính chất đối kháng của những nghịch lý ấy lại cứ âm thầm tác động lên hành vi xã hội của mỗi người trong chúng ta mà chúng ta không kiểm soát được, khiến cho chúng ta trở thành tiêu cực để rồi từ đó cứ mãi mãi vướng mắc vào những nghịch lý của mình mà không tìm được lối thoát.
 
Tục ngữ Việt nam có câu: "Ếch ngồi đáy giếng, thấy trời bằng vung." Thông thường mọi người vẫn dùng câu này để bình phẩm những người không biết tự lượng cái nhìn hạn hẹp của mình hay không biết cái tri thức bị giới hạn của mình trước cái bao la rộng lớn của một vấn đề mà đã có những suy đoán hồ đồ về sự vật. Tuy nhiên nếu hiểu theo một cách khác có tính cách khách quan hơn thì câu trên cũng có thể coi như là sự phát biểu của một định luật tâm lý học: sự vật được tri giác như thế nào là do nơi vị trí đứng của chủ thể tri giác.

ĐOÀN VĂN KHANH

No comments:

Post a Comment