Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Saturday, February 23, 2013

Tình Hận Ngày Xanh [2] - LAMARTINE

Truyện dịch

CHƯƠNG II

I

Graziella sau đó trở vô nhà để xe sợi với bà nội hoặc để chuẩn bị bữa ăn trưa. 

Về phần người ngư phủ già và Beppo thì suốt cả ngày ở ngoài bờ biển để xếp đặt chiếc thuyền mới, hoàn thiện nó theo như niềm đam mê đối với cái tài sản mới đã truyền cảm hứng cho họ, và thử lưới trong vùng được bãi đá ngầm che chở. Họ luôn luôn mang về cho chúng tôi để ăn trưa một số cua hoặc vài con lươn biển mà da còn trơn láng hơn cả chì vừa mới đun chảy. Bà mẹ đã đem chiên trong dầu ô liu. Theo cách thức của xứ này, gia đình này cũng cất giữ dầu ở dưới một cái hố nhỏ đào trong đá gần nhà và đậy lại bằng một hòn đá lớn có gắn một cái vòng quai bằng sắt.

Vài quả dưa chuột được cắt thành lát dài và chiên theo cùng một cách trong chảo, một số sò ốc tươi, giống như con vẹm mà người ta gọi là trái cây của biển, làm cho bữa ăn trưa thanh đạm của chúng tôi cũng là bữa ăn chính và ngon nhất trong ngày.
Những quả nho Muscat chùm dài màu vàng do Graziella cắt vào buổi sáng còn giữ nguyên nhánh và lá bày trong những cái giỏ trẹt bằng cói đan làm thành món tráng miệng. Một hoặc hai ống thìa là xanh nhúng sống trong tiêu và có mùi hương của hồi làm thơm môi và trợ tim thay rượu và cà phê cho chúng tôi, theo như thói quen thường dùng của các thủy thủ và nông dân xứ Naples. Sau bữa ăn, bạn tôi và tôi đi tìm một vài nơi có bóng râm và mát mẻ ở đỉnh vách đá trông ra biển và bờ biển của Baia, và chúng tôi ngồi tại đây để ngắm cảnh, mơ mộng và đọc sách vào những giờ nóng bức trong ngày cho đến khoảng bốn hoặc năm giờ chiều.


II

Chúng tôi chỉ vớt vát được có ba quyển sách lẻ bộ, bởi vì những quyển này không nằm trong cái túi đi biển của chúng tôi khi chúng tôi quăng nó xuống biển: đó là một quyển sách nhỏ viết bằng tiếng Ý của Ugo Foscolo, tựa đề "Thư của Jacopo Ortis, có tính chất nửa chính trị, nửa lãng mạn, trong đó niềm đam mê về tự do cho đất nước của ông được lồng vào trong trái tim của một thanh niên người Ý với niềm say mê về một cô gái người Venice xinh đẹp. Hai nguồn nhiệt tình, được nuôi dưỡng bằng hai ngọn lửa của người tình và người công dân, nhen nhúm trong tâm hồn của Ortis một sự đam mê mà khả năng đòi hỏi để đạt đến quá cứng rắn cho một người đàn ông nhạy cảm và ốm yếu, đã đưa đến kết quả cuối cùng là tự tử. Cuốn sách này, lúc bấy giờ đang là sách trong tay của tất cả mọi người trẻ tuổi như chúng tôi thích nuôi dưỡng trong tâm hồn hai giấc mộng của những kẻ xứng đáng để mơ mộng một cái gì đó cao cả: tình yêu và tự do. 
 

III

Cảnh sát của Bonaparte và của Murat đã tốn công vô ích khi cấm đoán tác giả và cuốn sách. Tác giả đã có được một chỗ ẩn náu, đó là trái tim của tất cả những người Ý yêu nước và tất cả những người theo chủ nghĩa tự do của châu Âu. Cuốn sách đã có một cung thánh, đó là lồng ngực của những người trẻ tuổi như chúng tôi; chúng tôi giấu nó vào đó để hít thở những câu châm ngôn trong đó. Hai quyển khác mà chúng tôi còn giữ được thì một quyển là Paul và Virginie của Bernardin de Saint-Pierre, tập truyện này thuộc loại tình yêu ngây thơ; cuốn sách giống như một trang về tuổi thơ của mọi người rút ra trong lịch sử của trái tim con người và được giữ gìn một cách hoàn toàn trong trắng và đẵm đầy nước mắt dễ lây lan cho những đôi mắt tuổi mười sáu. Quyển kia là một cuốn sách của Tacite, có những trang mang dấu vết của sự phóng đãng, sự sỉ nhục và máu, nhưng đức tính khắc khổ mới là nét đục chính trong đó, và sự thờ ơ bề mặt của lịch sử là để truyền cảm hứng cho những người hiểu được nó sự thù ghét chế độ độc tài, sức mạnh của lòng tận tụy cao cả và khát vọng về những sự hy sinh quảng đại. Ba cuốn sách này tình cờ lại tương ứng với ba tình cảm từ đó như một sự linh cảm làm rung động tâm hồn trẻ của chúng tôi: tình yêu về sự nhiệt tình cho công cuộc giải phóng nước Ý và nước Pháp, và cuối cùng là niềm đam mê về hành động chính trị và vận động cho những ý tưởng cao cả mà Tacite đã trình bày cho chúng tôi cái hình ảnh, và vì những điều ấy, ông ta đã nhúng tâm hồn chúng tôi hàng giờ trong máu của ngòi bút của mình và trong ngọn lửa của đức hạnh cổ xưa. Chúng tôi đọc lớn tiếng và lần lượt khi thì ngưỡng mộ, đôi lúc khóc, có khi lại mơ mộng. Chúng tôi ngắt quãng các bài đọc bằng những hồi im lặng dài và trao đổi một vài tiếng thở than mà đối với chúng tôi đó là những lời bình luận không suy nghĩ về cảm tưởng của mình, và được gió cuốn đi với những mơ ước của chúng tôi. 
 

IV

Bằng suy tưởng, chúng tôi tự đặt mình vào trong một số hoàn cảnh hư cấu hoặc thực tế này mà nhà thơ hoặc nhà viết sử vừa kể cho chúng tôi. Chúng tôi tự tạo cho mình thành một nhân vật lý tưởng về người tình hoặc người công dân, sống cuộc đời ẩn dật hoặc sinh họat với cộng đồng, của hạnh phúc hay đức hạnh. Chúng tôi thích thú kết hợp những trường hợp cao cả, những ngẫu nhiên tuyệt vời của thời đại cách mạng, khi những con người tầm thường nhất đã nổi bật lên trước đám đông nhờ thiên tài và được kêu gọi như là đích danh họ, để chống lại sự độc tài và cứu các dân tộc, sau đó, họ lại là nạn nhân của sự bất ổn định và sự vong ân của dân chúng, bị kết án chết trên giảo đài, trước mặt của thời đại đã nhận định sai lầm về họ và hậu thế trả thù cho họ. 

Không vai trò nào có mang chút tính chất anh hùng mà không tìm thấy tâm hồn chúng tôi cũng sẵn sàng ngang như tầm mức của những hoàn cảnh. Chúng tôi chuẩn bị mình cho tất cả, và nếu một ngày nào đó số mệnh không thực hiện những sự thử thách to lớn mà chúng tôi đã dự bị trước trong ý nghĩ này, chúng tôi sẽ báo thù bằng sự khinh bỉ nó trước tiên. Tự chúng tôi cũng có sự an ủi của những tâm hồn mạnh mẽ rằng nếu cuộc sống của chúng tôi là không cần thiết, tầm thường và trong bóng tối, đó là số mệnh đã bỏ lỡ chúng tôi, không phải chúng tôi làm lỡ số mệnh! 
 

V

Khi mặt trời lặn, chúng tôi thường thả bộ dài băng ngang đảo. Chúng tôi đi băng ngang qua mọi hướng. Chúng tôi đi đến thị trấn để mua bánh mì hoặc những thứ rau quả không có trong vườn nhà Andrea. Đôi khi chúng tôi mang về một ít thuốc lá, loại ma túy của người đi biển, nó khích lệ họ khi ở trên biển và an ủi họ lúc ở trên bờ. Chúng tôi trở về lúc đêm xuống, túi và tay đầy những món quà vặt khiêm tốn của chúng tôi.

Vào buổi tối, gia đình tụ tập trên mái nhà bằng mà ở Naples người ta gọi là astrico để chờ giờ đi ngủ. Không còn cảnh nào đẹp hơn cảnh tượng cái mái nhà sân thượng dưới ánh trăng trong những đêm đẹp trời của khí hậu vùng này.

Nhà ở nông thôn thường thấp và vuông vức trông giống như một cái bệ thời cổ mang trên mình những nhóm người sống động và những pho tượng linh hoạt. Tất cả mọi người sống dưới mái nhà đều lên đây, đi đứng hay ngồi yên trong những tư thế khác nhau mà ánh trăng hoặc ánh đèn chiếu thành những cái bóng trên nền xanh sẫm của bầu trời. Đây là nơi bà mẹ già ngồi xe sợi, người cha hút thuốc với cái ống điếu có nỏ làm bằng đất nung gắn vào một ống sậy, các chàng trai trẻ thì chống khủy tay trên mép tường và hát bằng cái âm điệu kéo dài những khúc ca về biển hoặc đồng quê mà cái giọng lê thê hoặc ngân vang nghe tựa như tiếng rên rỉ của ván gỗ bị sóng biển hành hạ hoặc tiếng ca inh ỏi của loài ve sầu dưới ánh mặt trời; cuối cùng là các cô gái, với váy ngắn, chân trần, áo cánh màu xanh lá cây có kết tua vàng hoặc lụa, và mái tóc đen dài trùm trong một khăn tay buộc sau ót bằng những cái nơ lớn để giữ cho tóc khỏi bụi, lất phất trên vai.

Họ thường nhảy múa một mình hoặc với chị em của họ, một người đàn ghi ta, một người khác nâng trên đầu một chiếc trống Basque xung quanh có gắn những lục lạc bằng đồng. Hai nhạc cụ này, một cái thì than vãn và thanh thoát, một cái lại đơn điệu và trầm đục, hòa hợp một cách kỳ diệu vào nhau để phát ra gần như không cần nghệ thuật hai nốt nhạc luân chuyển trong trái tim con người: nỗi buồn và niềm vui. Trong những đêm mùa hè gần như trên tất cả các mái nhà của các đảo hay vùng nông thôn của Naples, ngay cả trên những chiếc thuyền, người ta nghe có tiếng hòa nhạc ngoài trời đeo đẳng theo tai con người từ cảnh này sang cảnh khác, từ biển cả đến rừng núi, giống như tiếng vo ve của một loài côn trùng nào đó mà hơi ấm làm cho sinh sản ra và kêu vo ve dưới bầu trời xinh đẹp này. Loài côn trùng đáng thương này chính là con người đang ca hát một vài ngày trước Thiên Chúa, tuổi thanh xuân và tình yêu của mình, và sau đó thì câm lặng mãi mãi! Tôi chưa bao giờ có thể nghe những âm điệu từ trên cao của những sân thượng lan truyền trong không trung mà không dừng lại và cảm thấy tim se thắt, sẵn sàng vỡ ra với niềm vui bên trong hoặc nỗi buồn còn sâu đậm hơn tôi. 
 

VI

Đây cũng là những thái độ, điệu nhạc và tiếng nói trên sân thượng mái nhà của Andrea. Graziella chơi đàn ghi ta, và Beppino búng những ngón tay trẻ con của mình trên cái trống nhỏ mà trước đây đã được dùng để ru nó ngủ trong nôi hòa theo chị mình. Mặc dù là các nhạc cụ có tính chất làm cho vui và thái độ cũng là thái độ của niềm vui, những điệu nhạc lại buồn, âm điệu chậm và rời rạc làm nhức buốt tận những sợi tơ ngủ yên của lòng người. Có thể nói đâu cũng là nhạc nếu như đó không phải là một trò chơi vô ích cho tai, mà là một tiếng rên siết hài hòa về những niềm đam mê xuất phát từ tâm hồn thông qua tiếng nói. Tất cả các âm giọng của cô ta đều là những tiếng thở dài, tất cả các ca khúc của cô ta làm cho những giọt nước mắt lăn theo với tiếng hát. Người ta không bao giờ có thể chạm hơi mạnh trên trái tim của con người mà không làm cho nó tuôn nước mắt, chính vì bản chất con tim tự đáy sâu là đầy dẫy u buồn! và chính vì có ai đó đã lay động cho cặn đưa lên môi và các đám mây mờ vào đôi mắt của chúng ta!... 
 

VII

Ngay cả cô gái khi được chúng tôi khuyến khích, cũng khiêm tốn đứng lên nhảy theo điệu tarentela trong tiếng trống vỗ của em mình, và bị lôi cuốn theo các chuyển động quay tròn của điệu khiêu vũ dân tộc này, cô ta cũng xoay mình theo, đôi cánh tay duyên dáng giơ cao, dùng ngón tay của mình bắt chước tiếng sênh lách cách và dồn nhanh những bước chân trần của mình như những giọt mưa trên sân thượng; vâng, ngay cả lúc đó, đã có trong bầu không khí, trong thái độ, và trong chính cơn thác loạn của sự cuồng nhiệt trong hành động, một cái gì đó nghiêm trang và buồn, như thể tất cả niềm vui chỉ là một sự rồ dại thoáng qua, và như thể để nắm bắt được cái ánh chớp của hạnh phúc, tuổi thanh xuân và vẻ đẹp, người ta cũng cần phải biết ngất ngây đến chóng mặt và say sưa theo sự chuyển động đến cuồng loạn!  
 

VIII

Thường thì chúng tôi chuyện trò nghiêm trang với các chủ nhà của chúng tôi nhiều hơn, chúng tôi gợi cho họ kể về cuộc sống, truyền thống hoặc những kỷ niệm gia đình của họ. Mỗi gia đình đều có một lai lịch và thậm chí là một bài thơ cho những kẻ nào biết lần giở các trang sử của nó. Gia đình này cũng từng có danh vọng, sự giàu có, quyền thế của mình ở một xứ xa.

Tổ tiên của Andrea là một thương gia Hy Lạp từ đảo Aegina.


Bị viên tổng trấn của Athens ngược đãi vì tôn giáo của mình, một đêm, ông cụ đã đem vợ, con gái, con trai, của cải xuống một trong những chiếc thương thuyền của mình. Ông ta đã tị nạn tại Procida, nơi ông ta có các đại diện và cư dân cũng là người Hy Lạp như ông ta. Ông ta đã mua nhiều bất động sản lớn mà dấu vết còn sót lại tới nay là cái trang trại nhỏ nơi chúng tôi đang ở, và tên tuổi của tổ tiên được khắc trên một số mộ phần trong nghĩa trang của thành phố. Các bà con gái đã đi tu và chết trong tu viện của đảo. Mấy ông con trai thì đã mất tất cả tài sản của mình trong những cơn bão đã nhận chìm tàu thuyền của họ. Gia đình đã lâm vào cảnh sa sút.

Gia đình đã thay đổi cái tên đẹp đẽ bằng tiếng Hy lạp của mình bằng một cái tên không ai biết tới của một ngư dân xứ Procida. "Khi một căn nhà sụp đổ, người ta quét sạch nó đến viên đá cuối cùng," Andrea nói với  chúng tôi. "Từ tất cả những gì tổ tiên của tôi đã có dưới bầu trời, nay không còn lại gì ngoài đôi mái chèo của tôi, chiếc thuyền mà các cậu đã đền trả tôi, căn chòi này mà không thể nào nuôi sống nổi chủ của nó, và ân sủng của Thiên Chúa."  
 

IX

Bà mẹ già và cô gái yêu cầu đến lượt chúng tôi kể cho họ nghe chúng tôi là ai, ở nước nào, cha mẹ chúng tôi làm gì; phải chăng chúng tôi còn cha, còn mẹ, còn anh em, chị em, một ngôi nhà, những cây sung, cây nho; tại sao chúng tôi lại từ bỏ tất cả những thứ đó trong khi hãy còn trẻ, để đến chèo thuyền, đọc sách, viết lách, mơ mộng dưới ánh mặt trời và nằm ngủ trên mặt đất trong vịnh Naples. Chúng tôi nói bằng mọi cách, chúng tôi vẫn không bao giờ có thể làm cho họ hiểu rằng đó là để nhìn ngắm bầu trời và biển cả, để làm cho tâm hồn của chúng tôi bốc hơi dưới ánh mặt trời, để cảm thấy tuổi thanh niên của chúng tôi lên men trong người chúng tôi và để thu thập các ấn tượng, cảm xúc, ý tưởng mà sau đó chúng tôi có thể viết thành thơ, giống như những gì mà họ nhìn thấy tả ra trong những quyển sách của chúng tôi, hoặc giống như những gì mà những nghệ sĩ ứng khẩu của Naples ca hát vào các buổi tối chủ nhật cho các thủy thủ trên bờ đê chắn sóng ở bến tàu hoặc tại Margellina. 

"Mấy ông muốn chế nhạo tôi, Graziella vừa nói với chúng tôi vừa cười phá lên, mấy ông mà là nhà thơ! nhưng mấy ông đâu có mớ tóc rối bù xù và đôi mắt lờ đờ của những người được gọi bằng cái tên này trên các bến cảng! Mấy ông mà là nhà thơ! và thậm chí mấy ông không biết làm thế nào để gảy một nốt nhạc trên chiếc đàn ghi ta. Vậy thì mấy ông sẽ dùng thứ gì để hoà theo các bài mấy ông hát?" Rồi cô ta vửa lắc đầu vừa bĩu môi và càng như sốt ruột hơn về cái điều cô ta cho là chúng tôi không muốn nói sự thật. 
 

X

Đôi khi một ý tưởng ngờ vực xấu lướt qua tâm trí cô ta làm hiện lên cái vẻ hoài nghi và bóng tối của sự sợ hãi trong đôi mắt của cô ta. Nhưng điều ấy không kéo dài lâu. Chúng tôi nghe cô ta thì thầm với bà nội của mình: "Không, không thể nào như thế được, họ không phải là những người tị nạn bị xứ họ truy nã vì một hành động phạm pháp. Họ quá trẻ và quá hiền lành để có thể biết đến cái ác." Thế là chúng tôi bèn trêu cô ta bằng cách kể một câu chuyện về vài tội ác thật xấu xa mà chúng tôi tự xưng là thủ phạm. Sự tương phản giữa nét mặt bình tĩnh và trong sáng, đôi mắt thản nhiên, môi mỉm cười và trái tim rộng mở của chúng tôi với những tội ác hoang tưởng mà chúng tôi cho là mình đã phạm, làm cho cô ta cũng như em trai của cô ta cười phá lên, và nhanh chóng làm tan biến tất cả mọi nghi ngờ có thể có. 
 

XI

Graziella thường hỏi chúng tôi đọc những gì cả ngày trong sách của chúng tôi. Cô ta tin rằng đó là các bài kinh, bởi vì cô ta chưa bao giờ thấy cuốn sách nào ngoài sách tại nhà thờ trong tay các giáo dân biết chữ đọc theo những lời kinh thánh của vị linh mục. Cô ta nghĩ chúng tôi rất ngoan đạo, vì ngày nào chúng tôi cũng dành trọn ngày lẩm bẩm những lời bí ẩn. Cô ta chỉ lấy làm lạ tại sao chúng tôi lại không phải là linh mục hoặc tu sĩ trong một chủng viện tại Naples hoặc trong một vài tu viện của hải đảo. Để cô ta khỏi hiểu lầm, chúng tôi đã cố gắng đọc hai hoặc ba lần, bằng cách dịch sang ngôn ngữ bình dân của xứ này, những đoạn thơ của Foscolo và một số đoạn văn hay của Tacite trong các sách của chúng tôi.

Chúng tôi nghĩ rằng những tiếng thở dài yêu nước của người Ý lưu đày và những bi kịch lớn của đế quốc La Mã sẽ tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ trên các khán giả ngây thơ bởi vì dân tộc nào cũng có tổ quốc trong bản năng, những đức tính anh hùng trong tình cảm và thảm kịch trong cái liếc mắt nhìn. Điều họ ghi lại trên hết chính là những sự sụp đổ to tát và những cái chết cao cả. Nhưng chẳng mấy chốc chúng tôi nhận ra rằng những bản tuyên ngôn, và những cảnh gây ấn tượng mạnh đối với chúng tôi đã không có chút hiệu lực nào trên các tâm hồn giản dị này. 

Cái tình cảm về tự do chính trị, niềm ao ước này của những con người nhàn rỗi không đi xuống tới hàng dân giã.

Những ngư dân nghèo này không thể hiểu tại sao Ortis lại tuyệt vọng và tự sát, một khi ông ta có thể tận hưởng tất cả những lạc thú thực sự của cuộc sống: dạo chơi không phải làm gì cả, ngắm trời, yêu người tình của mình và cầu nguyện với Chúa trên bờ sông xanh và đầy cỏ của Brenta. 

"Tại sao phải tự dày vò như vậy," họ nói, "cho những ý tưởng không thâm nhập vào tận  trái tim? Có gì quan trọng cho ông ta khi người Áo hay người Pháp cai trị Milan? Thật đúng là một kẻ ngông cuồng khi tự chuốc lấy không biết bao phiền muộn vì những thứ như vậy." Và họ không thèm nghe nữa. 
 

XII

Đối với Tacite, họ còn ít chịu nghe hơn. Đế chế hay Cộng hòa, những kẻ tàn sát lẫn nhau này, một số để dành quyền cai trị, những kẻ khác để khỏi phải sống kiếp nô lệ, các tội ác vì cái ngai vàng, những đức hạnh vì sự vinh quang, những sự hy sinh vì hậu thế chỉ làm cho họ thờ ơ. Các cơn giông bão của lịch sử đã nổ ra quá cao trên đầu của họ, từ trên núi ngoài tầm ảnh hưởng của họ mà họ để mặc cho nó xuất hiện không cần lo lắng bởi vì chúng chỉ đánh vào các đỉnh núi, và chúng không hề lay động đến cánh buồm của người ngư dân hay ngôi nhà của người tá điền. Tacite chỉ phổ cập trong giới chính trị gia hay các nhà triết học; đó là một Platon của lịch sử. Sự  nhạy cảm của ông ta quá tinh tế đối với người bình dân. Muốn hiểu ông ta thì cũng phải từng sống trong những sự hỗn loạn ở các công trường hoặc trong các âm mưu bí ẩn của các cung điện. Loại bỏ sự tự do, tham vọng và vinh quang của những cảnh này thì còn lại gì? Đây là ba diễn viên chính trong những tấn bi kịch này. 

Nhưng ba niềm đam mê này lại xa lạ với người dân, bởi vì đó là những niềm đam mê của tinh thần và họ thì chỉ có niềm đam mê của trái tim. Chúng tôi nhận ra điều đó qua sự lạnh nhạt và ngạc nhiên khi những đoạn văn này loan truyền xung quanh chúng tôi. Sau đó, vào một buổi tối, chúng tôi thử đọc cho họ nghe Paul và Virginie. 

Chính tôi là kẻ vừa đọc vừa dịch, bởi vì tôi đã quá quen đọc nó đến nỗi có thể nói là tôi thuộc nằm lòng câu truyện. Nhờ đã lưu lại Ý lâu hơn và làm quen với ngôn ngữ, tôi đã không gặp khó khăn nào trong sự tìm kiếm từ ngữ và lời lẽ thoát ra môi tôi dễ dàng như khi nói tiếng mẹ đẻ.

Vừa bắt đầu câu truyện là diện mạo của đám thính giả nhỏ bé của chúng tôi đã thay đổi và biểu lộ một sự chú ý và vẻ trầm ngâm, một dấu hiệu chắc chắn đã có cảm xúc từ trái tim. Chúng tôi đã gặp đúng cái giai điệu làm rung lên đồng loạt trong tâm hồn của tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi và tất cả mọi hoàn cảnh, cái giai điệu nhạy cảm, cái giai điệu phổ thông, cái giai điệu chứa đựng trong chỉ một âm thôi cái chân lý vĩnh cửu của nghệ thuật: thiên nhiên, tình yêu và Thiên Chúa. 
 

XIII

Tôi chỉ mới đọc một vài trang mà tất cả từ ông bà già, cô gái, cậu bé đã thay đổi thái độ. Bác ngư dân thì chống khuỷu tay trên đầu gối và tai nghiêng về phía tôi, quên cả hút cái ống điếu của mình. Bà cụ già thì ngồi trước mặt tôi, hai bàn tay đan vào nhau dưới cằm với cử chỉ của những người đàn bà nghèo ngồi xổm trên vỉa hè đá của đền thờ khi nghe lời của Chúa. Beppo cũng tụt xuống khỏi bức tường sân thượng, nơi cậu bé vẫn ngồi nãy giờ. Nó đã đặt cây ghi ta của mình xuống trên sàn mà không gây một tiếng động. Nó đặt bàn tay nằm ngang trên cần đàn như sợ gió làm cho dây đàn rung lên. Graziella, người thường ngồi hơi cách xa hơn một chút, cũng dần dần nhích lại gần tôi hồi nào không hay, như thể cô ta bị thôi miên bởi một sức mạnh thu hút tàng ẩn trong cuốn sách.

Dựa lưng vào bức tường của sân thượng mà tôi cũng đang ngồi duỗi mình dưới chân, cô ta càng lúc càng xích lại về phía tôi, tựa bàn tay trái chống xuống đất trong tư thế của người dũng sĩ bị thương. Cô ta nhìn với đôi mắt lớn mở to khi thì cuốn sách, khi thì đôi môi của tôi đang đọc truyện, đôi khi khoảng không giữa đôi môi của tôi và cuốn sách, như thể cô ta đưa mắt tìm kiếm cái tinh thần vô hình đã làm cho tôi hiểu được nó. Tôi nghe thấy hơi thở không đều của cô ta đứt quãng hay dồn dập tùy theo tình tiết của câu truyện giống như hơi thở hào hển của một người đang leo núi thỉnh thoảng ngừng lại để thở. 

Trước khi tôi đọc đến giữa câu truyện, cô gái nghèo đã quên luôn cái thái độ giữ kẽ hơi cục mịch của mình đối với tôi. Tôi cảm thấy hơi thở ấm áp của cô ta trên bàn tay của tôi. Tóc của cô ta lất phất trên trán tôi. Hai hoặc ba giọt nước mắt nóng bỏng từ má cô ta rơi xuống làm lem các trang sách, gần ngay ngón tay của tôi.  
 

XIV

Ngoại trừ tiếng đọc chậm rãi và đơn điệu của tôi đang dịch sát từng chữ bài thơ của trái tim này cho gia đình người ngư phủ, người ta không còn nghe một âm thanh nào khác ngoài những tiếng rì rào xa xăm của sóng vỗ vào bờ biển dưới xa kia phía dưới chân chúng tôi. Âm thanh này cũng hòa điệu với tiếng đọc truyện. Đây cũng giống như một điều linh cảm về cái kết cục của câu truyện đang gầm thét trước trong không khí ngay lúc khởi đầu và trong suốt thời gian đọc truyện.

Câu truyện càng đi sâu càng có vẻ thu hút các thính giả chất phác của chúng tôi. Đôi khi tình cờ tôi ngập ngừng để tìm từ ngữ đúng hầu diễn đạt một từ của tiếng Pháp, Graziella, từ nãy giờ vẫn dùng cái tấm tạp dề của mình để che gió cho ngọn đèn đang cầm, đã đưa đèn sát vào các trang sách, như thể cô ta nghĩ rằng ánh sáng của ngọn lửa sẽ làm nảy phun ra ý nghĩa tinh thần lên mắt tôi và làm cho lời nói nở nhanh hơn trên đôi môi của tôi, và suýt làm cháy cuốn sách vì sự nôn nóng của mình. Tôi lấy tay đẩy cây đèn ra xa, mỉm cười, mắt không rời khỏi trang sách, và tôi cảm thấy mấy ngón tay của tôi ấm lên những giọt nước mắt cô ta. 
 

XV

Khi tôi đọc đến chỗ Virginia được dì gọi về Pháp, cảm thấy con người của mình có thể nói là như bị xé ra làm hai, và cố gắng an ủi Paul dưới những bụi chuối bằng cách nói sẽ trở lại và chỉ cho chàng ta mặt biển sắp mang nàng đi, tôi khép quyển sách lại và tôi để dành buổi đọc truyện cho ngày hôm sau.

Đúng là một đòn đánh vào trái tim của những người nghèo này. Graziella quỳ xuống trước mặt tôi, rồi trước mặt bạn tôi, để khẩn khoản chúng tôi đọc nốt câu truyện. Nhưng vô ích. Chúng tôi muốn kéo dài sự hứng thú cho cô ta, sự quyến rũ của cơn thử thách cho chúng tôi. Cô ta bèn giật lấy cuốn sách khỏi tay tôi. Cô ta mở nó ra, như thể với sức mạnh của ý chí, cô ta sẽ có thể  hiểu được ý nghĩa của các chữ viết. Cô ta trân trọng đặt quyển sách lại trên đầu gối của tôi, vừa chắp tay vừa nhìn tôi trong khi van nài.

Nét mặt của cô ta rất thanh thoát và rất tươi cười nhưng hơi khắc khổ lúc bình thường, đã bất ngờ tỏ ra trong sự say mê và động lòng thương xót về câu truyện này một cái gì đó náo động, rối loạn và thống thiết của tấn bi kịch. Có thể nói dường như một sự xoay chuyển thình lình đã thay đổi khối đá cẩm thạch đẹp đẽ này thành thịt xương và nước mắt. Cô gái cảm thấy tâm hồn của mình vốn lâu nay vẫn ngủ yên, được biểu lộ ra cho cô ta trong tâm hồn của Virginie. Cô ta dường như đã trưởng thành hơn được sáu năm trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Các màu sắc giông bão của sự say mê hằn lên trán, màu trắng xanh của mắt và lên má cô ta. Nó giống như một mặt nước yên tĩnh và được che chở nhưng mặt trời, gió và bóng tối đã bất ngờ ập đến khuấy động lần đầu tiên. Chúng tôi không thể nào chán khi nhìn cô ta trong thái độ đó. Cô ta là một người từ hồi nào chỉ gợi cho chúng tôi sự vui vẻ hồn nhiên, bây giờ đang gợi cho chúng tôi cái ý gần như tôn trọng. Nhưng cô ta có cầu xin để chúng tôi tiếp tục đọc cũng vô ích thôi, chúng tôi không muốn sử dụng ưu thế của chúng tôi chỉ một lần, và những giọt nước mắt đẹp của cô ta làm cho chúng tôi quá hài lòng khiến chúng tôi muốn thấy nó đổ ra hơn là làm cho nó khô cạn đi trong một ngày. Cô ta đành vừa bĩu môi vửa rút lui, và tắt đèn với vẻ hờn giận. 
 

XVI

Ngày hôm sau, khi tôi gặp lại cô ta dưới giàn nho và muốn gợi chuyện thì cô ta quay mặt đi giống như một người nào đó đang muốn giấu những giọt nước mắt của mình và từ chối trả lời. Đôi mắt cô ta hơi có quầng đen, hai má cô ta có màu nhợt nhạt hơn, và nơi khoé miệng cô ta hơi lõm xuống một chút nhè nhẹ và duyên dáng, cho thấy là cô ta đã không ngủ, và trái tim của cô ta vẫn còn nặng trĩu nỗi buồn phiền tưởng tượng của tối hôm qua.

Thật đúng là hiệu lực kỳ diệu của một cuốn sách khi tác động lên trái tim của một đứa trẻ mù chữ của một gia đình thất học với tất cả sức mạnh của một thực tại, mà sự đọc sách là một biến cố trong đời sống tinh cảm!

Cũng giống như khi tôi diễn dịch bài thơ thì bài thơ cũng diễn dịch thiên nhiên, và cho dù những sự kiện này rất đơn giản, cái nôi của hai đứa trẻ ở dưới chân của hai bà mẹ nghèo, tình yêu thơ ngây của chúng, sự chia ly xa xót, sự trở lại bị lừa dối bởi cái chết, sự đắm tàu và hai ngôi mộ, chỉ bao hàm một trái tim dưới những bụi chuối, lại là những điều mà mọi người đều cảm thấy và hiểu, từ nơi cung điện cho đến căn chòi của người ngư dân. Các nhà thơ tìm kiếm cái tài tình ở tận đâu đâu trong khi nó đang ở trong trái tim và chỉ vài tiếng rất đơn giản khi chạm vào một cách thành kính và ngẫu nhiên trên cái nhạc cụ được chính Thiên Chúa sắp đặt này, là đủ để làm cho con người khóc một thế kỷ, và để trở thành phổ biến cũng như tình yêu và truyền cảm cũng như tình cảm. Cái cao cả làm cho nhàm chán, cái đẹp thì lừa dối, chỉ có sự thống thiết là không sai lầm trong nghệ thuật. Kẻ nào biết làm động lòng, biết tất cả. Có nhiều cái tài tình trong một giọt nước mắt hơn trong tất cả các viện bảo tàng và thư viện trong vũ trụ. Con người cũng giống như một cái cây mà người ta rung để làm cho trái của nó rơi xuống: người ta không bao giờ làm rung động một con người mà không làm nó rơi nước mắt. 
 

XVII

Suốt cả ngày ngôi nhà ảm đạm như thể một biến cố đau buồn đã xảy ra trong cái gia đình khiêm tốn này. Người ta gặp nhau để dùng bữa mà hầu như không nói với nhau lời nào. Người ta chia tay nhau. Người ta gặp lại nhau mà không có một nụ cười. Người ta thấy là Graziella đã không để tâm vào những gì cô ta làm trong khi loay hoay trong vườn hoặc trên mái nhà. Cô hay nhìn xem mặt trời đã hạ xuống chưa, và ngày hôm đó, rõ ràng là cô ta chỉ chờ đợi có buổi tối.

Khi đêm đã xuống và chúng tôi đã trở lại chỗ ngồi thường ngày của chúng tôi trên sân thượng, tôi mở lại cuốn sách và đọc xong hết câu truyện trong những tiếng nức nở. Cả ông cha, bà mẹ già, con cái, bạn tôi, luôn chính tôi, tất cả đều dự phần vào cái cảm xúc chung. Âm thanh buồn bã và trầm lắng của giọng đọc cũng được tôi cố ý uốn nắn theo nỗi buồn của các biến cố và sự trang trọng của các lời nói. Ở phần cuối của câu chuyện, chúng hình như từ xa xăm đến và từ trên cao rơi xuống trong tâm hồn với một giọng hư ảo của một lồng ngực trống rỗng, ở đó trái tim không còn đập và không còn dự phần vào những thứ của trần gian ngoài nỗi u buồn, tín ngưỡng và những kỷ niệm.  
 

XVIII

Không thể thốt ra những lời lẽ vô ích nào nữa sau câu truyện này. Graziella vẫn bất động trong tư thế mà cô ta đã ngồi nghe truyện và không có cử chỉ nào như thể cô ta vẫn còn lắng nghe. Sự im lặng, cách tán thưởng những cảm nghĩ kéo dài và thực sự này, không hề bị ai làm gián đoạn. Mỗi người đều tôn trọng những suy nghĩ nơi những người khác mà chính họ cũng tự cảm thấy. Ngọn đèn cháy lụn và đã tắt mà gần như không ai hay và cũng không một ai trong chúng tôi buồn đưa tay ra để thắp lại. Cả gia đình đã đứng dậy và len lén đi xuống. Chúng tôi ngồi lại một mình, bạn tôi và tôi,  tâm trí lẫn lộn trong cái sức mạnh vô cùng của chân lý, của sự giản dị và của tình cảm trên tất cả mọi con người, mọi lứa tuổi và mọi quốc gia. 

Có lẽ một xúc động khác cũng đã làm chúng tôi xao xuyến tận thâm tâm. Cái hình ảnh hân hoan của Graziella bị biến đổi bởi những giọt nước mắt của mình khi hiểu được nỗi đau buồn vì tình yêu và hình ảnh thiên thần của Virginie chập chờn trong giấc mơ của chúng tôi. Hai cái tên và hai đứa trẻ, lẫn lộn trong những lúc xuất hiện đây đó, làm hân hoan hoặc sầu não giấc ngủ không ổn định của chúng tôi cho đến sáng. Buổi tối ngày hôm đó và hai ngày tiếp theo sau tôi đã phải đọc lại cũng câu truyện đó hai lần nữa cho cô gái.

Cho dù chúng tôi có đọc liên tiếp hàng trăm lần đi nữa chưa chắc cô ta đã chán để không còn đòi đọc thêm lần nữa. Cái đặc tính mơ mộng và sâu sắc trong trí tưởng tượng của người dân miền Trung Ý là không phải để tìm kiếm sự đa dạng trong thơ hay trong âm nhạc mà có thể nói là âm nhạc và thơ là các đề tài trong đó mỗi người thêu dệt lên những cảm xúc riêng của mình, người ta nuôi dưỡng mình trong đó mà không chán, giống như dân chúng của cùng câu chuyện và cùng một bầu không khí trong nhiều thế kỷ. Ngay cả thiên nhiên, điệu nhạc và vần thơ tuyệt tác này, còn có điều gì khác hơn là hai hoặc ba lời nói và hai hoặc ba âm điệu, luôn luôn giống nhau, mà nó làm cho con người sầu muộn hoặc hân hoan từ tiếng thở dài đầu tiên đến tiếng cuối cùng? 
 

XIX

Vào ngày thứ chín, lúc mặt trời mọc, gió từ vùng chí tuyến cuối cùng cũng đã lặng, và trong một vài giờ, mặt biển đã trở lại với biển mùa hè. Ngay cả những ngọn núi của bờ biển xứ Naples, cũng như biển và bầu trời dường như đang bơi lội trong một chất lỏng trong trẻo hơn và xanh hơn là trong các tháng nóng bức, tựa như bầu trời và núi non đã cảm thấy cái ớn lạnh của mùa đông làm kết tinh không khí và làm cho nó lấp lánh sáng như nước đông đá của các băng hà. 

Các lá trở vàng của cây nho và lá ngả màu nâu của cây sung bắt đầu rụng và rải rác ngoài sân. Nho đã hái xong. Sung được phơi khô dưới ánh mặt trời trên sân thượng cũng đã được gói trong những cái bao thô bằng cói biển đã được các người phụ nữ bện thành tấm. Chiếc thuyền cũng đang cần được thử biển và người ngư phủ già cần đưa gia đình về lại Margellina. Họ dọn dẹp nhà cửa và mái nhà cho sạch sẽ, đậy nguồn giếng nước bằng một hòn đá lớn để lá khô và nước mưa của mùa đông không làm ô nhiễm lòng giếng. Họ múc hết dầu trong cái hố nhỏ đục trong đá. Họ cho dầu vào trong các hũ; mấy đứa bé đã dùng những cậy gậy nhỏ xỏ luồn qua quai hũ để mang chúng xuống biển. Họ bó tấm nệm và những cái mền thành một bó cột bằng dây thừng. Họ thắp sáng lần cuối ngọn đèn dưới bức tượng ảnh bỏ lại của ngôi nhà. Họ cầu nguyện một lần cuối cùng trước tượng Đức Mẹ để gửi gắm ngôi nhà, các cây sung và nho mà họ phải rời bỏ trong nhiều tháng cho Đức Mẹ gìn giữ. Sau đó, họ đóng cửa. Họ giấu chìa khóa ở dưới đáy của một kẽ đá phủ giây trường xuân, để trong mùa đông khi người ngư phủ có trở lại biết chỗ mà tìm và có thể ghé thăm ngôi nhà của mình.

Sau đó chúng tôi đi xuống biển và cùng giúp gia đình nghèo trong việc mang theo dầu, bánh mì và trái cây và đem hết lên thuyền.

Nguyên tác  Graziella  
Tác giả  ALPHONSE DE LAMARTINE  (1790-1869)
ÐOÀN VĂN KHANH dịch
theo
nguyên văn tiếng Pháp

No comments:

Post a Comment