1.- CÓ NGƯỜI NÊN MỚI CÓ RÁC
Tôi không nhớ đã
đọc được ở đâu câu định nghĩa: Con người là một sinh
vật xả rác. Mới nghe qua tưởng chừng như đấy chỉ là
câu nói đùa, nhưng nếu suy nghĩ kỹ sẽ thấy lời nói trên
quả là chí lý. Chỉ có con người mới phân biệt cái gì
là rác phải bỏ đi và cái gì là vật dùng được cần phải
giữ lại. Rác được thu vén vào có chỗ cũng như vật dùng
được cũng phải có nơi. Con người càng văn minh tiến bộ
thì càng xả rác nhiều hơn và rác là một vấn đề tối
quan trọng cần phải được giải quyết trong xã hội.
Tại nông thôn,
con người sống tản mác, ít có những nhu cầu phức tạp
nên rác không nhiều và cũng không hỗn tạp, do đó người
nông dân có thể đem rác vun vào các gốc cây hay gốc bầu
gốc bí cho tốt giây sai quả, hoặc cũng có thể dùng rác
ủ thành phân bón để trồng trọt. Nhờ bằng phương thức
này mà rác ở nông thôn được giải quyết nhanh gọn và không
tạo ra vấn đề. Nhưng tại các thành phố là những nơi tập
trung dân cư, rác thải ra cần phải được gom lại và có
một chỗ chứa vì nếu như cứ để rác bừa bãi thì rác
lại sẽ lẫn lộn với vật được dùng, vừa thiếu vệ sinh,
vừa mất đi vẻ thẩm mỹ, và gây trở ngại vô cùng trong
cuộc sống thường ngày của con người.
Muốn gom rác và
chứa rác cho gọn trước khi đem đổ và khi muốn đem rác
đi đổ, chúng ta cần phải có những phương tiện thích hợp,
nên người ta đã làm ra cái chổi rác, cái giỏ rác, cái thùng
rác và bao nhiêu thứ linh tinh nữa để dùng vào việc thu dọn
rác. Người ta lại còn chế ra cả những loại xe chuyên dùng
trong việc thu dọn rác mà chúng ta vẫn quen gọi một cách
nôm na là xe rác. Do đó mà muốn giải quyết rác trong nhà,
chúng ta có cái chổi rác, cái bao rác, cái thùng rác v.v...và
để giải quyết rác cho một thành phố, một khu vực, chúng
ta cần đến những cái xe rác, hố rác, bãi rác. Vậy thìø
cái thùng rác, cái xe rác, hố rác v.v... đều là những cái
được dùng và cũng là những cái cần thiết cho cuộc sống.
Như vậy là liên hệ đến rác đã có những vật dụng.
Thành phố càng
đông dân, khu vực càng rộng lớn thì lượng rác càng nhiều,
bãi rác lại càng to và càng xa. Không phải ai cũng có thể
tự mình mang rác từ nhà đến đổ tại bãi rác, hay không
phải ai cũng có thể tự mình dọn dẹp rác, thí dụ như ở
những nơi công cọng chẳng hạn, do đó đã nảy sinh ra một
số công việc cố định. Cần phải có những người chuyên
lo việc dọn dẹp rác, có những người chuyên lo việc gom
rác và chở tới bãi rác để đổ. Những người chuyên làm
những loại công việc này thường được gọi là lao công,
là phu rác..., hay chúng ta cũng có thể gọi họ là những nhân
viên phụ trách vấn đề vệ sinh, giữ sạch môi trường.
Những người này đều được hưởng lương hay thù lao trong
công việc. Như vậy là liên hệ đến rác đã có cả một
nghề nghiệp.
Vì rác không phải
chỉ là một vấn đề của cá nhân mà còn là của tập thể
nên muốn giải quyết vấn đề cho có hiệu quả, cần phải
có sự điều hành và tổ chức. Do đó mà chúng ta thấy phát
sinh ra những bộ phận liên hệ như công ty rác, sở rác, ban
Vệ sinh và Phòng dịch, cơ quan Nghiên cứu và Bảo vệ Môi
trường v.v... chuyên lo giải quyết về rác hay là những vấn
đề có liên quan đến rác. Ðây cũng là những bộ phận thiết
yếu của một tổ chức xã hội văn minh và tiến bộ. Như
vậy là liên hệ đến rác đã có cả một ngành.
Nhưng nếu như
chỉ biết gom rác đổ vào bãi rác mà thôi chưa phải là giải
quyết xong vấn đề. Con người càng văn minh thì lại càng
xả rác nhiều, và con người càng sống tập trung thì lượng
rác tại các bãi chứa rác càng to lớn và nếu không có phương
thức giải quyết thỏa đáng và kịp thời thì theo với thời gian, lượng rác tích lũy sẽ lại tràn ngập môi trường sống
của con người. Ngoài ra, con người càng văn minh thì nhu cầu
càng cao và càng nhiều, do đó mức độ xử dụng tài nguyên
càng phung phí, có thể đưa đến sự thiếu hụt. Và theo đà
khoa học tân tiến, rác không phải chỉ là những vật thể
dưới dạng cứng mà còn bao gồm cả những vật thể dưới
dạng lỏng và dạng khí như các chất thải hóa học chẳng hạn. Do đó người ta đã nghĩ đến việc tái xử dụng rác
như là nguyên liệu hay chế biến rác thành sản phẩm. Công
việc thu hồi, tái sinh, tái chế biến này đòi hỏi máy móc,
cơ sở hoạt động, những người có kiến thức chuyên môn
cùng những người có tay nghề. Như vậy là liên hệ đến
rác còn có cả một ngành khoa học và kỹ nghệ.
Nhưng rác là cái
gì, hay nói một cách khác, cái gì là rác? Ðây mới là cái
rắc rối vì rác tuy mang tính cách vật chất cụ thể nhưng
lại không chỉ hẳn vào một vật cụ thể nào cả. Rác có
thể là một mảnh giấy vụn, một mẩu bánh thừa, một cái
ghế gãy, một cái máy hát cũ quá không còn dùng nữa, một
căn nhà sập hay là cả một công trình đổ nát vì bom đạn
hay thiên tai chẳng hạn. Nhưng cũng có khi có những vật chưa
phải là thừa, chưa phải là cũ, chưa phải là hư, nhưng nếu
chủ thể nhìn nó, coi nó như là rác thì nó cũng trở thành
rác luôn. Nói tóm lại, bất cứ vật gì có mối tương quan
được xử dụng đối với con người, đều có thể bị coi
là rác, tùy theo cái nhìn của từng chủ thể.
Như vậy, để
phân biệt rác với lại cái không phải là rác, chúng ta chỉ
còn cách duy nhất là dựa vào tính khả dụng của từng vật
theo cái nhu cầu chủ quan của mỗi người. Mà theo cách này
thì có những vật đối với người này được coi là rác
nhưng đối với một người khác lại là vật dùng được,
hay ngược lại. Và nếu như cứ lập luận theo kiểu này thì
cuối cùng chúng ta lại có thể rơi vào một kết luận có
tính chất mâu thuẫn, vì chẳng còn cái gì để chúng ta có
thể gọi là rác nữa cả.
Ðành rằng mỗi
con người là một cá thể dị biệt nhưng biết sống thành
xã hội nên cũng có nhiều điểm tương đồng, nhờ đó mà
có thể ấn định được một số tiêu chuẩn chung dựa trên
những nhu cầu chung, để có thể phân biệt sự vật xung quanh
mình một cách gần giống nhau. Những tiêu chuẩn dùng để
phân biệt này do xã hội mà có, được đa số trong xã hội
mặc nhiên chấp nhận, do đó có tính cách tương đối, cùng
thay đổi theo không gian và thời gian. Những trường hợp ngược
lại chỉ là thiểu số và được coi như ngoại lệ. Vậy
thì, cái gì đa số đồng ý cho là rác, thường được coi
là rác. Chính vì thế mà rác hiện hữu, vấn đề tồn tại
và con người cứ phải lo giải quyết hoài.
Nếu như mọi người đều hành xử theo thông lệ thì luận về rác cũng chẳng có gì để nói. Nhưng chính vì có một số người lại luôn luôn nhìn thấy trong rác cái dùng được mà rác trở thành nguồn sống cho họ và cũng là nguồn gốc của nhiều nỗi vui buồn trong xã hội loài người. Ca dao Việt nam có câu:2.- SỐNG NHỜ RÁC
Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan, vợ húp, gật gù khen ngon
Ruột bù tức là phần ruột của quả
bầu, một loại rau quả dùng làm thức ăn rất thông thường
của dân Việt nam. Tôi dùng từ bù thay cho bầu theo cách phát
âm địa phương của người dân quê miền Nghệ Tĩnh để
ăn vần với hai chữ gật gù của câu dưới, diễn tả được
một xúc động tâm lý có tính gợi cảm hơn hai tiếng gật
đầu chỉ mới diễn tả một động tác bình thường. Hơn
thế nữa, câu ca dao này phải phát xuất từ cửa miệng một
người dân Nghệ Tĩnh thì mới thật thấm thía ý nghĩa của
câu nói. Ðiều này cũng không có gì lấy làm khó hiểu vì lẽ, vùng đất vẫn tự hào là địa linh nhân kiệt lại cũng
là vùng đất nghèo nàn nhất của đất nước. Giai thoại
Cá gỗ cũng là một câu chuyện khôi hài tiêu biểu cho tính
khắc khổ của người dân vùng này.
Chắc có người sẽ thắc mắc khi
thấy tôi đang luận về rác bỗng dưng lại nhảy qua bàn chuyện
ca dao cổ tích. Thực tình tôi vẫn đang nói về rác và câu
ca dao trên chính là một minh chứng cụ thể cho những điều
phân tích về rác tôi đã nói ở phần đầu.
Như chúng ta đều biết, khi sửa
soạn tôm làm thức ăn, chúng ta vẫn thường lặt bỏ hết
vỏ đầu kèm theo tất cả râu ria của nó. Còn bầu thì chỉ
khi nào còn thật non chúng ta mới ăn phần ruột, nếu hơi
già một tí, hột bầu đã bắt đầu cứng thì chúng ta chỉ
lấy phần cơm còn phần ruột không dùng. Râu tôm và ruột
bầu bây giờ được gọi là rác. Hầu như mọi người đều
nhìn nhận như vậy.
Nhưng cũng lại có những người
mà niềm mơ ước duy nhất trong đời là làm sao có được
bất cứ vật gì để chêm cho đầy cái bao tử lúc nào cũng
cảm thấy đói mà không bị chết vì ngộ độc thì quả thật
món râu tôm nấu với ruột bầu kia cũng đã là một món ăn
ngon lành rồi. Như vậy là đối với những người này, râu
tôm và ruột bầu không phải rác mà chính là thực phẩm.
Kinh nghiệm này chắc chắn không phải chỉ những người dân
quê nghèo đói của xã hội thời lạc hậu mới có mà ngay
trong chúng ta, những ai đã từng bị tập trung cải tạo dưới
chế độ cộng sản, cũng từng trải qua.Tôi biết có một lần, ở trại cải tạo Z.30C, có một con heo nọc ngã bệnh
lăn ra chết, ban quản trại đã cho lệnh đem chôn, thế mà
sau đó vẫn có vài anh em tù lén đào lên lấy thịt chén ngon
lành.
Bất cứ xã hội nào dù là giàu mạnh, cũng luôn luôn có những người thiếu ăn. Ðồ ăn thừa
của nhà giàu đổ đi, người nghèo vớt vát làm của ăn cho
mình.Tại các nước nghèo và chậm tiến, nạn đói thường
xảy ra thì không lạ gì cái cảnh một con người sắp chết
đói, cố bươi trong đống rác để tìm cho mình bất cứ chút
gì có thể cho vào mồm. Nạn đói khủng khiếp hồi năm 45
tại miền Bắc khiến cho hai triệu người chết vì thiếu
ăn là một hình ảnh lịch sử hãi hùng ghi sâu vào tâm khảm
mà mọi người dân Việt sẽ mãi mãi không quên. Kiếp người
trong hoàn cảnh này vô tình đã tụt xuống ngang hàng với
kiếp chó.
3.- NHỮNG VUI BUỒN TỪ RÁC
Tìm cái ăn trong
rác như tôi vừa kể chỉ là hiện tuợng đặc biệt, nhưng
tìm nguồn sống trong rác lại là một hiện tượng thông thường.
Ðiều này cho thấy liên hệ đến rác còn vô số ngành nghề
khác. Những người làm mấy nghề này không nhất thiết phải
là chuyên nghiệp và thường không hưởng lương theo chế độ.
Lợi tức có được là do nơi khả năng làm việc, do may mắn
hay cũng có khi cần đến mánh lới riêng của mình.
Trước hết chúng
ta hãy nói về cái nghề đơn giản nhất, đó là nghề lượm
rác.Công việc của những người làm nghề này mang tính cách
trái ngược với công việc của những người làm công tác
vệ sinh bảo vệ môi trường. Người lượm rác tìm đến
những chỗ có rác hay ngay tại những nơi rác đã được gom
lại như thùng rác, đống rác, bãi rác v.v... để lấy lại
từ rác những cái được cho là dùng được. Họ thường
là những người không còn kiếm ra công việc làm ăn nào khác
khá hơn, hoặc là những trẻ em con nhà nghèo. Tuy xã hội gọi
nó là một nghề nhưng nghề này lại không cần đến kỹ
năng hay là phải trải qua một khóa huấn nghệ nào cả. Người
làm nghề này thường chỉ hành nghề với tính cách phụ,
tạm thời hay bất đắc dĩ chứ không bao giờ muốn đeo đuổi
nó suốt đời.
Nhiều người
có lẽ nghĩ rằng nghề này chỉ riêng mấy xứ nghèo, người
đông của khó mới có.Trong thực tế, ngay ở những nước
tư bản tân tiến như nước Mỹ chẳng hạn, chúng ta vẫn
thấy có những người đi lượm lon. Riêng tại mảnh đất
từng có bốn ngàn năm văn hiến thì nghề này cũng đã có
những thời kỳ phát triển một cách cực thịnh, thí dụ
như thời quân đội Mỹ còn tham chiến ở đó.
Vào thời kỳ
cao điểm của cuộc chiến tranh Việt nam, số quân Mỹ trú
đóng tại miền Nam lên tới hơn nửa triệu. Nhu cầu tiêu
thụ đồ ăn đồ dùng rất lớn. Hầu hết những nhu yếu
phẩm này cùng những hàng hóa tiêu dùng khác được cung cấp
từ Hoa kỳ và các xứ tư bản, và thường được đánh giá
là loại sản phẩm có chất lượng cao. Mức độ tiêu thụ
cao và trình độ người tiêu thụ cao thì lượng rác càng
nhiều và càng có giá về mặt phẩm. Do đó mà rác Mỹ đã
từng được đánh giá cao gấp hàng trăm lần rác nội địa,
chẳng khác nào đồng đô la đem so sánh với đồng bạc Việt nam.
Cùng tăng theo
cường độ của cuộc chiến là con số những người dân
quê bị bứng ra khỏi thôn làng vì bom đạn và dồn về sống
trong các trại tạm cư ở thành phố. Những người này không
vốn liếng chuyên môn, không công ăn việc làm, thôi thì đành
rủ nhau ra các bãi chứa rác của quân đội Mỹ thải ra để
kiếm sống vậy. Ðám dân hành nghề này hầu như không vắng
bóng lứa tuổi nào cả. Họ tranh nhau bươi cào, lượm lặt,
không thua kém gì đàn gà. Ðôi khi niềm an ủi cũng đến với họ, đó là gặp ngày phước lớn được
"thánh nhân đãi
kẻ khù khờ", ban cho mớ đô la hay cái nhẫn vàng trong đống
rác thì thật đúng là phút huy hoàng cho cuộc đời tăm tối.
Hoạt cảnh này
tưởng chừng đã chấm dứt theo sự rút lui của quân đội
Mỹ và sự kết thúc chiến tranh ở Việt nam, không ngờ sau
75 vẫn còn tái diễn, nhưng mang một màu sắc mới lạ hơn.
Do đường lối lãnh đạo sai lầm và những chính sách bất
công của đảng Cộng sản và Nhà nước Việt nam, nền kinh
tế của Miền Nam trở nên kiệt quệ. Sản xuất yếu kém
lại còn thêm vấn đề khan hiếm nguyên vật liệu trầm trọng,
nên người ta quay ra khai thác các vật liệu phế thải trong
rác. Về mặt xã hội thì nạn đói và nạn thất nghiệp tràn lan, đe dọa thường xuyên cuộc sống của con người. Do đó
mà một lần nữa người dân lại đổ xô tới các bãi đổ
rác của quân đội Mỹ trước đây để kiếm sống. Cuộc
săn tìm vật liệu phế thải trong rác Mỹ này cũng ồ ạt
không kém gì cuộc săn vàng ở Hoa kỳ thời mới lập quốc.
Hễ biết được chỗ nào vốn là chỗ đổ rác của quân
đội Mỹ trước đây là cả một đạo quân thất nghiệp
tràn tới bằng xe đạp thồ, xe ba gác, xe cải tiến... cùng
đua nhau đào bới, lượm lặt.
Theo thời gian,
lớp rác cũ nay đã mục và lẫn vào đất. Những người đi
tìm kiếm lượm lặt bây giờ không thể chỉ dùng tay không
mà phải trang bị xà beng, cuốc xẻng, hoặc ít ra cũng là
một con dao cùn để có thể xoi đào trong đất. Họ không
kỳ vọng tìm thấy những vật dụng nguyên vẹn vì những
vật như thế đã được lớp người của thời kỳ trước
75 nhặt nhạnh hết rồi. Cái mà họ nhằm tìm kiếm bây giờ
là bất cứ cái gì có thể biến thành nguyên vật liệu, cho
nên họ lượm lặt từ cái bao ni lông dơ, miếng bao bố rách,
mảnh chai lọ vỡ cho đến viên đạn thúi hay có khi còn là
cả một quả bom chưa nổ. Do tính chất nguy hiểm của một
vài thứ rác thuộc loại này mà đôi khi tai nạn chết người
cũng đã xảy ra.
Một nghề phụ
nữa cũng liên hệ đến rác là nghề đi mua ve chai. Nghề này
có lẽ phát triển cũng đã lâu, vì ngay từ thời Tây mới
qua cai trị xứ Nam kỳ đã có một người từ bên Tàu qua
với hai bàn tay trắng nhưng đã nhờ làm nghề này mà trở
nên giàu có và nổi tiếng, khắp Sàigòn Chợ lớn ai cũng biết, đó là chú
Hỏa.
Ðiểm khác biệt
giữa nghề ve chai và nghề lượm rác là người mua ve chai
không trực tiếp thu lượm những món phế thải từ đống
rác hay bãi rác mà phải bỏ tiền ra mua lại những thứ này
từ người lượm rác hay chính từ nơi chủ nhân của những
món phế thải đã gom góp để dành bán cho ve chai kiếm thêm
chút tiền cải thiện kinh tế gia đình. Sau đó dân ve chai
mới đem những thứ đã mua được bán lại cho chủ vựa ve chai. Lợi tức kiếm được trong công việc là dựa trên sự
chênh lệch về giá cả mua vào và giá bán lại cho chủ vựa,
do đó người làm nghề này cần có chút vốn liếng nhỏ và
chút kinh nghiệm về nhu cầu và giá cả ve chai trên thị trường.
Họ thường hay gánh đôi giỏ cần xé đi lang thang khắp hang
cùng ngỏ hẻm của phố phường, thỉnh thoảng lại rao lên
hai tiếng "ve chai" rất quen tai đối với dân thành phố.
Cũng có một số
người chỉ đi tìm mua một vài thứ cá biệt thí dụ như
vỏ chai không rượu ngoại quốc, lọ không và hộp vỏ thuốc
nhuộm tóc Bigen của Nhật, vỏ hộp không kem thoa mặt Thái
lan v.v... hoặc những thứ chai, hộp, bao bì không của một
số sản phẩm ngoại quốc mà các cơ sở sản xuất hàng giả
mạo cần đến. Những người làm nghề này thường làm việc
với tính cách ngắn hạn và phải biết ăn chịu với các
cơ sở chuyên sản xuất hàng giả mạo trước khi hành nghề.
Nhìn chung, đạo quân tham gia vào các ngành nghề ve chai này
đã lên tới con số kỷ lục sau ngày chế độ cộng hòa tại
Miền Nam sụp đổ, và nếu như chúng ta thử tò mò làm một
bản phân tích về thành phần xuất thân hay là trình độ
học vấn và năng lực của những người tham gia vào đạo
quân này, chúng ta mới có thể nhìn thấy rõ cái phức tạp
của xã hội vào thời kỳ này.
Cùng trong nghề
ve chai nhưng công việc làm ăn mang tính cách quy mô hơn, đó
là những người chủ vựa ve chai. Họ cần phải có vốn,
có cơ sở làm ăn để thu mua đủ thứ tạp vật từ dân ve
chai gánh gánh, đem sắp xếp và phân loại để bán lại cho
các cơ sở chế biến nguyên liệu hay sản xuất hàng tiêu
dùng. Tuy cùng chung một nghề, cùng làm một công việc thu
mua những thứ phế thải lấy ra từ rác để bán lại kiếm lời, nhưng giới chủ vựa không phải lao động vất vả như
dân đi mua ve chai hằng ngày. Lợi tức mà họ thu được cũng
cao hơn gấp bội vì họ có vốn lớn. Về mặt xã hội, họ
cũng có chút địa vị hơn hẳn giới ve chai lội bộ, và khi
cần phải kê khai lý lịch nghề nghiệp, họ có thể dùng
từ kinh doanh hay khai thác phế liệu thay cho từ "buôn ve chai"
vừa kém thanh nhã, vừa mang tính bóc lột.
Bên cạnh số
chủ vựa ve chai chuyên làm trung gian thu mua từ đám ve chai
lẻ tẻ để cung cấp hàng loạt cho các cơ sở chế biến
sản xuất, còn có một số vựa khác chỉ nhằm thu mua các
loại vật dụng phế thải rồi để nguyên như vậy hoặc
có khi cũng tân trang hay đánh bóng lại đôi chút để sau đó
bán lại cho kẻ cần dùng mà ít tiền hoặc có tính ham rẻ.
Danh từ dùng để gọi riêng giới này là giới lạc xoong.
Tuy giới tiêu thụ ham rẻ thuờng tới đây, nhưng nếu chúng
ta thử tò mò tìm hiểu giá mua vào và giá bán ra của cùng
một món đồ, đôi khi chúng ta phải cúi đầu bái phục cho
cái tài thao túng giá cả của mấy ông bà chủ tiệm lạc xoong. Từ một vật bị sở hữu chủ ban đầu coi là phế
thải cho vào rác, qua tay người mót lặt trở nên có chút
giá trị ve chai, đến lúc vào nằm trong cửa tiệm lạc xoong,
vật trở lại giá trị của một vật dụng. Ðúng là một
cái vòng lẩn quẩn.
Người ta cũng
có thể dựa vào nguồn rác để khai thác thành thực phẩm,
không phải cho người mà cho gia súc, cho nên nảy sinh thêm
cái nghề gọi nôm na là nghề đổi cơm heo, chuyên đi lấy
đồ ăn thừa đổ đi của các cửa hàng ăn uống, hoặc đi
gom các thứ đầu tôm ruột cá và các loại rau cải thúi héo
bỏ đi từ các chợ đem về làm thực phẩm nuôi heo gà. Ðúng
ra đây không phải là một nghề riêng rẽ mà thường là một
trong những công việc phải làm của những người làm nghề
chăn nuôi theo kiểu gia đình.
Nói đến đây
tôi lại nhớ câu chuyện xảy ra ỏ trại tập trung Suối Máu.
Một cải tạo viên được chỉ định trông nom mấy con heo
của đám cán bộ. Công việc hằng ngày của anh này là lo
cho heo ăn và tắm rửa heo cho sạch sẽ. Anh này được phép
vào nhà bếp dành nấu ăn cho cán bộ để gom cơm cháy và
các thức dư thừa để nuôi heo. Thay vì đem hết những thứ
đã gom được cho vào nồi cháo heo, anh cải tạo viên này
đã cố gắng tuyển lựa lại vài miếng cơm cháy chưa đến
nỗi quá khét hay vài cọng rau già bỏ vào "gô" riêng (cái
lon nhôm của hiệu sữa Guigoz được người ta dùng để đựng
thức ăn) để cải thiện bữa ăn của chính mình. Một ngày nọ, anh ta bị cán bộ bắt gặp đang dấu mấy mẩu cơm cháy
vào gô. Thế là anh cải tạo viên đó bị bắt làm tự thú
và bị đem ra đấu tranh phê bình kiểm điểm trước toàn
thể trại viên để nêu gương học tập. Giữa hội trường,
cán bộ quản giáo đã kết tội anh cải tạo viên kia là: "...vẫn chưa từ bỏ bản chất bóc
lột, trước đây quen
thói bóc lột cơm áo của nhân dân, nên ngày nay mới có hành
động bóc lột cơm cháy của heo..."
Ngoài ra cũng có
một số người dựa vào rác để làm ăn thí dụ như các
nhà thầu đổ rác. Những người này không hề phải lao động
bằng chân tay mà thường là những kẻ ngồi mát ăn bát vàng,
có tiền và thế lực, và còn phải có cả mánh lới nữa.
Công việc chính thức của họ là ký tên vào bản hợp đồng
nhận trách nhiệm thanh toán rác của một cơ quan, một đơn
vị hay một khu vực nào đó. Còn công việc phụ nhưng lại
rất quan trọng (không phải là chuyện trực tiếp đem rác
đi đổ vì công việc này đã có những công nhân chuyên nghiệp
mà họ thuê đứng ra làm rồi) là làm sao cho trong số rác
đó có thật nhiều rác loại đặc biệt, và lo tìm cách tiêu
thụ các thứ rác đặc biệt ấy sao cho không bị cảnh sát
hay cơ quan an ninh khám phá. Chẳng thế mà thời Mỹ còn đóng
quân ở Việt nam chúng ta đã từng thấy có những chiếc xe
rác từ căn cứ Mỹ chạy ra, không đi thẳng đến bãi chứa
rác mà lại ghé vào một nơi khuất nẻo và đổ ra nào là tivi, tủ
lạnh, máy móc...cho đến đầy đủ các thứ rượu bia, nước
ngọt, thực phẩm đóng hộp hay đông lạnh còn
nguyên thùng. Xã hội đôi khi tặng cho họ cái danh hiệu là
Vua Rác.
Cái nghề này
tưởng chừng khó có thể mà tồn tại ở các quốc gia theo
chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng thực tế lại trái ngược
hẳn. Có điều dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những
cái tên như nhà thầu, dân chạy áp phe,...mang tính chất bóc
lột của xã hội tư bản đã được thay thế bằng những
cái tên mới như là giám đốc xí nghiệp, quản đốc nông
trường hay chủ tịch ủy ban thanh lý thứ này thứ nọ v.v...nghe
văn minh tiến bộ và nghe có vẻ cách mạng hơn. Nói tóm lại,
rác là một cái gì khách quan nhưng lại hoàn toàn tùy thuộc
vào cái nhìn chủ quan của chủ thể khi hướng về ngoại
vật qua tương quan lợi ích cá nhân, do đó mà rác hay không
là rác cũng thay đổi tùy theo cách nhìn, lúc nhìn và nơi nhìn.
Và cho dù rác được hiểu theo nghĩa cái bỏ đi, cái đã mất
hết giá trị nổi, rác vẫn còn mang một giá trị tiềm tàng.
Cho nên chúng ta cũng đừng lấy làm ngạc nhiên khi thấy có
vài dân tỵ nạn cộng sản khi mới đặt chân lần đầu tiên
đến đất Hoa kỳ, nhìn cái thùng rác xứ Mỹ đã buột miệng
than thầm: "Ôi! Cả một gia tài bị lãng phí ".
Luận về rác
thì vô cùng không bao giờ xong, cũng giống như rác không bao
giờ hết. Tôi xin tạm ngưng ở đây để sẽ trở lại bàn
về rác qua khía cạnh rác rưởi, hay nói một cách khác, rác
trên bình diện đạo đức và siêu hình. Ông cha ta chẳng đã
từng để lại cho chúng ta một câu tục ngữ rất chí lý
đó sao : "Xem bói ra ma, quét nhà ra rác."
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment