Pages

"Ao Sau Vườn" vốn là một trang Web đã từng góp mặt trên mạng từ năm 1998 nhằm phổ biến những sáng tác của cá nhân tôi để cùng chia xẻ với mọi người, nhưng nay đã đóng lại vì khả năng kỹ thuật cũng như sức khoẻ không còn cho phép tôi duy trì trang Web này như cũ. Tuy nhiên, để đáp lại chút duyên tri ngộ cũng như cảm tình mà nhiều bạn bè và độc giả đã dành cho trang Web trên bấy lâu nên tôi dùng trang blog này làm nơi lưu trữ các sáng tác trên hầu giúp qúy bạn bè và độc giả có thể ghé vào đọc khi muốn tìm lại chút kỷ niệm nào đó đối với "Ao Sau Vườn".

Sunday, February 24, 2013

Buổi Học Cuối Cùng - A. DAUDET

Truyện dịch 
TRUYỆN KỂ CỦA MỘT CẬU BÉ VÙNG ALSACE

Buổi sáng hôm đó, tôi thức dậy quá trễ để đi học, và tôi rất lấy làm lo sợ sẽ bị quở trách, nhất là thầy M. Hamel đã dặn chúng tôi là thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về phần văn phạm, mà tôi thì chưa thuộc lấy một chữ. Có một lúc tôi đã nảy ra cái ý tưởng trốn học và bỏ chạy ra đồng chơi. Bầu trời lại quá ấm áp, quá trong trẻo, người ta nghe cả tiếng những con chim sáo hót ở bìa rừng, và trong sân cỏ Rippet đàng sau xưởng cưa, bọn lính Phổ đang tập thao diễn. Tất cả những cái đó cám dỗ tôi hơn là bài học về quy tắc của các phân từ, nhưng tôi đã cố cưỡng lại, và tôi chạy thật nhanh đến trường. 

Khi chạy ngang qua trước tòa xã trưởng, tôi thấy có một số người dừng lại trước cái bảng nhỏ niêm yết các thông báo. Từ hai năm nay, chính từ cái chỗ này đã mang lại cho chúng tôi toàn những tin tức bất lợi, những cuộc thất trận, những vụ trưng tập, những mệnh lệnh chuyển giao quyền hành, và tôi suy nghĩ trong khi không dừng lại: 

«Lại còn chuyện gì nữa đây?» Và trong khi tôi chạy băng qua quảng trường thì thấy bác phó rèn Wachter đứng ở đó với chú thợ tập sự đang đọc thông báo, nói lớn lên với tôi: 

«Đâu có cần vội vã như thế, cậu bé; cậu vẫn kịp đến trường còn sớm chán!» Tôi nghĩ là bác ấy chế nhạo tôi, và tôi chạy đến thở hổn hển khi vào tới cái sân nhỏ của thầy Hamel. 

Thường lệ, mỗi lần lớp học bắt đầu là cả một sự huyên náo đến nỗi người ngoài đường cũng nghe thấy tiếng mở, đóng các hộc bàn, tiếng đồng loạt đọc ôn lại các bài vở mà ai nấy cũng cất giọng thật lớn trong khi hai tay bịt tai lại để cho mình học có hiệu quả hơn, và cây thước kẽ lớn của thầy giáo thì cứ gõ trên các bàn học.  

«Im lặng một chút nào!» Tôi toan tính dựa vào cái lúc đang lộn xộn đó để lẻn vào chỗ ngồi mà không bị ai bắt gặp; nhưng đúng vào ngày hôm ấy, tất cả đều yên lặng giống như một buổi sáng Chủ nhật. Qua khung cửa sổ mở, tôi nhìn thấy các bạn tôi đều đã ngồi yên chỗ, và thầy Hamel thì đang đi qua đi lại với cây thước kẽ bằng sắt trong tay. Phải mở cửa và đi vào giữa sự hoàn toàn yên tịnh này, bạn thử nghĩ xem, tôi sẽ xấu hổ và sợ hãi đến độ nào! 

Nguy to rồi! không! Thầy Hamel nhìn tôi không hề giận dữ và nói với tôi một cách rất dịu dàng: «Hãy về chỗ ngồi của con nhanh lên, chú bé Franz của ta; lớp học sắp bắt đầu mà không có con. » 

Tôi choàng chân qua chiếc ghế dài và lập tức ngồi xuống ngay bàn mình. Chỉ đến lúc đó tôi mới hơi bớt sợ. Tôi nhận thấy là thầy giáo của chúng tôi mặc cái áo lễ phục màu xanh lục, cổ xếp nếp kỹ lưỡng, và chiếc quần lụa đen viền rua mà ông ta chỉ mặc vào những ngày trường có cuộc thanh tra hay lễ phát thưởng. Ngoài ra, tất cả lớp đều mang một vẻ rất khác thường và trang trọng. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất, đó là thấy ở đàng cuối lớp, trên mấy chiếc ghế dài thường ngày vẫn để trống, mấy nhân vật đại diện trong làng đang ngồi yên lặng như chúng tôi, cụ già Hauser với cái mũ vành ba góc của ông ta, ông cựu xã trưởng, viên cựu bưu tá, và còn nhiều bô lão khác nữa. Tất cả những người đó đều lộ vẻ âu sầu; và ông lão Hauser còn mang theo cả quyển sách học vần cũ đã sờn tận gáy mà ông lão đặt mở rộng trên đầu gối với đôi kính mắt nằm ngang trên trang sách.  

Trong khi tôi còn ngạc nhiên về tất cả những điều ấy, thầy Hamel đã bước lên bục ngồi của mình, và cũng bằng một giọng dịu dàng và trầm ấm mà thầy đã tiếp tôi, nói với chúng tôi : 

«Hỡi các con, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con học. Lệnh từ Bá linh truyền ra là chỉ được dạy tiếng Đức trong các trường học của các vùng Alsace và Lorraine... Thầy giáo mới sẽ đến vào ngày mai. Hôm nay là lớp học bằng tiếng Pháp cuối cùng của các con. Thầy xin các con hãy tỏ ra thật chăm chỉ.» 

Mấy lời này làm đảo lộn tâm trí tôi. Than ôi! những kẻ đáng thương, đó là những gì mà người ta đã niêm yết trong thông báo ở tòa xã trưởng. 

Bài học tiếng Pháp cuối cùng của tôi!... Và tôi thì chỉ vừa mới biết viết chút đỉnh! Vậy là tôi sẽ không bao giờ được học nữa! Vậy là phải ngưng lại tại đó!... 

Lúc này tôi mới thấy hối hận về thời gian đã đánh mất, những lần trốn học để đi bắt tổ chim hoặc là đi chơi trượt ở Saar! Những quyển sách mà vừa rồi tôi hãy còn cảm thấy quá buồn chán, quá nặng nề để mang theo, quyển văn phạm, quyển lịch sử thần thánh, bây giờ lại giống như những người bạn cũ đối với tôi, làm cho tôi rất đau lòng khi phải từ bỏ. Cả với thầy Hamel cũng thế. Ý nghĩ thầy sẽ phải ra đi, rằng tôi sẽ không còn gặp lại thầy nữa làm tôi quên hết những hình phạt, những ngọn roi. Tội nghiệp cho thầy quá!   

Chính vì để vinh danh buổi học cuối cùng này mà thầy đã đóng bộ y phục ngày chủ nhật lên người, và bây giờ thì tôi đã hiểu vì sao các bô lão của làng đã đến ngồi ở cuối phòng. Hình như điều ấy nói lên là họ hối tiếc đã không đến đây, đến ngôi trường này thường xuyên hơn. Đó cũng là một cách để cám ơn người thầy giáo của chúng tôi đã bốn chục năm hành nghề một cách tốt đẹp, và để làm tròn nghĩa vụ đối với tổ quốc sắp sửa...  

Tôi đang suy nghĩ đến đây thì nghe gọi đến tên mình. Đã đến lượt tôi trả bài. Chẳng phải tôi đã được học hàng bao nhiêu lần để có thể đọc một mạch cái quy tắc của các phân từ thật lớn tiếng, thật rõ ràng, không vấp váp một chữ. Nhưng vừa vào câu đầu tiên là tôi đã bị rối trí, và tôi đứng chết trân người tại chỗ ngồi của mình, lòng buồn bực, không dám ngửng đầu lên. Tôi nghe thầy Hamel nói với tôi: 

«Thầy không trách mắng con đâu, bé Franz à, con đã bị trừng phạt đủ rồi... Ngày nào người ta cũng tự bảo mình: “Chà! Tôi còn nhiều thì giờ mà. «Ngày mai» tôi sẽ học.» Và rồi thì con đã thấy cái gì đến… Ôi! Thật là điều đại bất hạnh cho xứ Alsace của chúng ta luôn luôn gác lại việc học hành cho ngày hôm sau.  

Bây giờ thì những kẻ bên kia đã có quyền nói với chúng ta: «Lạ nhỉ! Các anh cho rằng các anh là người Pháp, thế mà các anh không hề biết đọc hay viết thứ ngôn ngữ của các anh!»  

Trong tất cả những chuyện ấy, Franz đáng thương của ta, con chưa phải là kẻ có lỗi nhất. 

Tất cả chúng ta đều có lỗi để trách về phần mình. Nào là cha mẹ các con đã không để ý lo cho các con học hành đến nơi đến chốn. Họ thích cho các con đi làm đồng hoặc ở các nhà máy chỉ sợi để có thêm chút đỉnh tiền nong. Chính ta đây cũng thế, chẳng lẽ ta đây không có gì đáng trách sao?  

Chẳng phải là ta hay bắt các con đi tưới vườn cho ta thay vì lo học? Và khi ta thích đi câu cá hồi, chẳng phải là ta đã cho các con được nghỉ học đó sao?...» Thế là, từ chuyện này sang chuyện khác, thầy Hamel bắt đầu nói cho chúng tôi nghe về ngôn ngữ Pháp, nói rằng đó là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất mà chúng tôi phải gìn giữ cho mình và đừng bao giờ quên, bởi vì, khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ mà vẫn còn duy trì được ngôn ngữ của mình thì chẳng khác nào họ vẫn nắm được cái chìa khóa mở cửa nhà tù của mình...  

Rồi thầy lấy một quyển văn phạm và đọc bài cho chúng tôi. Tôi rất ngạc nhiên thấy mình như hiểu ra được cả. Tất cả những gì thầy nói hình như đâm ra dễ dàng đối với tôi. Tôi cũng nghĩ rằng chưa bao giờ tôi chú tâm nghe đến thế, và ngay cả thầy cũng chưa bao giờ lại kiên nhẫn cắt nghĩa bài học kỹ như thế. Có thể nói là trước khi rời khỏi nơi đây, người thầy đáng thương muốn truyền cho chúng tôi tất cả sự hiểu biết của ông ta, nhồi hết vào trong đầu chúng tôi trong một lần. Bài học chấm dứt, mọi người chuyển qua tập viết. Để chuẩn bị cho ngày hôm đó, thầy Hamel đã soạn sẵn cho chúng tôi những bài mẫu hoàn toàn mới được viết toàn bằng nét chữ đậm đẹp:  

«Pháp, Alsace, Pháp, Alsace». Cái đó làm thành như những lá cờ nhỏ phất phới xung quanh toàn lớp học, được treo nơi những chiếc bàn học của chúng tôi.

Phải nhìn xem mới thấy mỗi người đều chăm chỉ đến độ nào, và yên lặng biết bao! người ta chỉ nghe thấy tiếng ngòi viết sột soạt trên giấy. Có một lúc có mấy con bọ rầy bay vào, nhưng không ai chú ý đến cả, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng đang tập đồ những nét sổ với cả tấm lòng, một ý thức, như thể những cái đó cũng hãy còn là của Pháp... Trên mái nhà của ngôi trường những con chim bồ câu đang rúc khe khẽ, và tôi tự bảo trong khi nghe chúng rúc: «Phải chăng người ta lại không sắp sửa bắt chúng, mấy con chim đó, cũng phải gáy bằng tiếng Đức?» Thỉnh thoảng, khi ngước mắt nhìn lên khỏi trang sách, tôi thấy thầy Hamel ngồi bất động trên chiếc ghế và nhìn đăm đăm vào những đồ vật quanh mình, như thể thầy muốn mang theo trong cái nhìn đó tất cái mái trường bé nhỏ của mình... 

Thử nghĩ xem! từ bốn chục năm nay, ông ta đã ngồi tại đó, cùng một chỗ, với khoảng sân trước mặt và cái lớp học luôn luôn giống nhau của ông ta. Chỉ có điều là những chiếc ghế dài, những chiếc bàn học đã nhẵn bóng lên vì sự cọ xát do xử dụng lâu ngày; những cây giẻ gai trong sân đã lớn, và những dây hốt bố do chính tự tay ông ta trồng trong sân bây giờ đã đâm nhánh viền theo các khung cửa sổ lên đến tận mái nhà. Thật là đau lòng biết mấy cho con người hiền lành này khi phải từ bỏ tất cả những cái đó, và nghe tiếng đi lại của người em gái đang xếp hành lý vào các rương hòm ở căn phòng phía trên. Tại vì ngày mai họ phải lên đường, rời khỏi nơi đây mãi mãi. Tuy thế, thầy vẫn đủ nghị lực để dạy cho chúng tôi đến cuối lớp. 

Sau bài tập viết, chúng tôi qua bài học lịch sử; tiếp đó những trò nhỏ cùng ê a đánh vần những chữ BA BE BI Bo Bu. Tận phía cuối lớp, cụ già Hauser cũng đeo kính lên và, hai tay cầm quyển sách học vần của mình, cụ đánh vần theo với chúng. Người ta thấy cụ cũng chăm chỉ, giọng run run vì xúc động, nghe thật là khôi hài đến nỗi tất cả chúng tôi cùng cảm thấy nửa như muốn cười nửa như muốn khóc. Ôi! tôi sẽ nhớ mãi cái buổi học cuối cùng này... 

Thình lình, chiếc đồng hồ lớn của ngôi nhà thờ điểm giờ giữa trưa, rồi tiếng kinh Truyền tin. Cùng lúc ấy, tiếng kèn của quân Phổ kéo về sau cuộc diễn tập vang lên ngoài cửa sổ lớp của chúng tôi... Thầy Hamel đứng lên, tái người đi nơi ghế của mình. Chưa bao giờ tôi thấy thầy cao cả như vậy.   

 «Hỡi các bạn, thầy nói, các con, thầy... thầy...»  

Nhưng có một cái gì đó làm cho thầy nghẹn ngào. Thầy không thể nào nói hết câu. 

Sau đó thầy quay lại cái bảng đen, lấy một viên phấn, và đè hết sức mạnh để viết bằng nét chữ thật lớn hết mức: 

«NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!» 

Rồi thầy thừ người ra đó, đầu tựa vào tường và không nói một lời, thầy dùng tay ra hiệu cho chúng tôi: 

«Lớp học mãn rồi... các con ra về đi.»

Nguyên tácLA DERNIÈRE CLASSE 
[CONTES DU LUNDI]
Tác giả   ALPHONSE DAUDET  [1840-1897]

ÐOÀN VĂN KHANH dịch

No comments:

Post a Comment