Tùy bút
Cứ
mỗi lần hoa mai, hoa đào nở là thiên hạ lại náo nức đua nhau sắm sửa,
trang hoàng, chưng diện để đón mừng xuân mới. Điều ấy đã trở thành một
tập tục truyền thống của dân tộc Việt. Bốn mùa thay đổi cho nên khi mùa
xuân ấm áp có qua đi nhường chỗ cho mùa hạ nắng cháy, mùa thu úa tàn,
rồi mùa đông u ám thì sau đó mùa xuân tươi sáng cũng lại trở
về.
Nhưng
xuân đến, xuân đi, xuân lại đến chỉ là cái vòng tuần hoàn của vũ trụ.
Do cái lẽ nhận định xuân chung quy cũng chỉ là một giai đoạn trong cái
chu kỳ lặp đi lặp lại đó cho nên Trần Tế Xương, một nhà nho sống vào
buổi giao thời của nền Nho học đang suy tàn và ảnh hưởng Tây học đang
bành trướng, lại thêm nỗi phẫn chí vì đường công danh thi cử lận đận của
mình nên đã chán ngán thốt lên những lời lẽ bi quan yếm thế trong bài
thơ Năm Mới khi thấy thiên hạ xung quanh mình nô nức đón mừng xuân mới
một cách nhố nhăng phù
phiếm
Chỉ bảo nhau rằng mới với me,
Bảo ai rằng cũ chẳng ai nghe
Khăn là bác nọ to tày rế
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè...
Cứ
bình tâm mà xét thì nếu những ai đang ở vào tuổi trẻ, dễ lạc quan và
yêu đời nên mỗi khi xuân về lại cảm thấy như mùa xuân đang mang lại cho
mình một niềm phấn khởi mới, cho nên có bảo xuân là mới thì cũng là cái
lẽ thường tình. Còn đối với kẻ nhìn sự vật qua lăng kính triết lý như cụ
Tú Xương thì lại đem cái lẽ tuần hoàn của hiện tượng thiên nhiên ra mà
nhắc bảo với mọi người xuân là cũ cũng không sai chút nào. Tuy nhiên, ca
dao lại có một câu diễn tả cái nhìn về xuân theo kiểu rất hiện thực như
sau:
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sồng sộc nó thì theo sau.
Nếu
có những người chỉ biết vin vào câu ca dao này để lăn xả vào sự hưởng
thụ các lạc thú hiện tại khi tuổi còn đang trẻ, thì cũng có người lẩm
cẩm như tôi, xem câu ca dao trên cũng còn là một nhận định về cái chân
lý bất biến: có trẻ tất nhiên sẽ có già. Mỗi một người chỉ có một cuộc
đời, và trong cuộc đời chỉ có một thời tuổi trẻ được ví như là mùa xuân,
cho nên một khi cái mùa xuân tuổi trẻ của mỗi người đã qua đi thì những
cái xuân còn lại chỉ là cái
"xuân lại càng già".
Mấy chữ "xuân lại càng già" tôi dùng ở đây
chỉ là cái ý dịch ra từ mấy chữ Hán "xuân hựu lão" của một
nhà thơ Trung hoa mà tôi học được một cách tình cờ nhân một
lần tôi được đọc cái truyện ngắn có tựa đề là Đánh thơ
của nhà văn Nguyễn Tuân cách nay cũng đã xa xưa lắm. Thật ra thì
vào lúc mới đọc tôi cũng chẳng hiểu mấy chữ Hán trên có
những ý nghĩa sâu xa nào, nhưng cái âm hưởng của mấy chữ ấy
tự nó lại như có một ma lực nào đó khiến cho tôi từ đó
trở đi hay có những suy nghĩ luẩn quẩn về mấy chữ này.
Vốn
sinh ra trong một gia đình thuộc thành phần trung lưu trí thức tiểu tư
sản cho nên không ít thì nhiều tôi cũng mang trong người cái tâm hồn tự
do lãng mạn của lớp cha anh thời bấy giờ, do đó khi bắt đầu biết đọc
sách là ham đọc sách. Vào thời ấy phương tiện truyền
thông chưa phát triển như bây giờ cho nên ngoài cái thú đọc sách cũng
chẳng còn cái thú tiêu khiển tinh thần nào khác. Lại nữa, vì sống trong
vùng kháng chiến nên sách vở cũng không nhiều, ngoài một ít sách xuất
bản từ thời trước chiến tranh mà một số gia đình còn cất giữ được thì
không còn tìm đâu ra. Chính vì thế mà mỗi khi bắt gặp được quyển sách
nào để đọc là cả một niềm vui, và nếu là sách hay thì lại càng thích
nghiền ngẫm. Do đó, khi gặp được quyển Vang bóng một thời của Nguyễn
Tuân, một nhà văn nổi tiếng thời tiền chiến, tôi đã đọc rất say mê và có
nhiều câu truyện đã để lại trong tâm hồn tôi một ấn tượng khá sâu đậm.
Vang
bóng một thời, đúng như cái tựa của cả quyển sách, là một tập gồm nhiều
truyện ngắn có chung một bối cảnh là xã hội Việt Nam vào lúc ảnh hưởng
của nền văn hóa Nho giáo đã suy tàn để chuyển mình vào thời đại Tây hóa.
Những nhân vật chính trong các câu truyện này là những hình ảnh tiêu
biểu thuộc về một lớp người của một nền văn hóa đã lỗi thời nhưng vẫn
còn rơi rớt lại trong xã hội như là vang bóng của một thời quá khứ vàng
son đã qua đi không bao giờ còn trở
lại.
Phải
nói là cái say mê của tôi khi đọc tác phẩm Vang bóng một thời một phần
do hoàn cảnh tuổi thơ của tôi không may lại rơi nhằm vào một thời kỳ mà
đất nước bắt đầu một giai đoạn lịch sử đầy đau thương và bi đát của dân
tộc. Cuộc cách mạng vùng lên giành độc lập và xây dựng dân chủ của một
dân tộc vốn quen sống dưới chế độ quân chủ phong kiến và thuộc địa sau
khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc đã bị những ma đầu chính trị trong nước và
những thế lực đen tối quốc tế thao túng, lèo lái, khiến cho đất nước
không những lâm vào một cuộc chiến tranh dai dẳng và tàn khốc, mà ngay
cả xã hội thì bị đảo lộn và dân tộc cũng bị phân hóa.
Vào
thời ấy, người dân ở vùng kháng chiến luôn luôn sống trong nỗi phập
phồng lo sợ: lớp thì do bom đạn của quân đội Pháp đe dọa, lớp thì do
những chính sách bóp nghẹt tự do của nhà cầm quyền Việt Minh đang ra
công tẩy xóa đi cái trật tự của một xã hội cũ để thiết lập một trật tự
mới theo chủ nghĩa Cọng sản, khiến cho những thành phần bị Việt Minh xem
là đối tượng cần phải bị tiêu diệt cảm thấy mình không còn chỗ đứng nào
trong cái xã hội này nữa. Từ sự cảm nhận cái thân phận đáng thương của
những thành phần đang bị chế độ mới bứng ra khỏi cái gốc chung của dân
tộc khiến cho tôi càng thích tìm lại những nét đẹp tinh thần của một nếp
sống thanh bình nào đó chỉ có được trong quá
khứ.
Mặc
dù đọc suốt mười mấy truyện trong Vang Bóng Một Thời, truyện nào cũng
mang lại cho tôi ít nhiều cảm nghĩ u hoài về những nhân vật và một nếp
sống đã đến giai đoạn bị đào thải của một xã hội trước đây, nhưng cái ý
"xuân lại càng già" thì lại đến từ hai câu thơ mà tác
giả đưa vào trong truyện ngắn Đánh thơ.
Đánh
thơ là một cái thú tiêu khiển của các tay nho sĩ thời xưa, một trò chơi
vừa mang tính chất cờ bạc nhưng lại mượn văn chương để thử thời vận cho
có vẻ thanh tao, cho nên người chơi đánh thơ ít ra cũng là người từng
theo học chữ thánh hiền và có một số vốn hiểu biết về thơ phú. Cách chơi
đánh thơ này cũng gần giống như học sinh ngày nay làm bài thi trắc
nghiệm điền chữ vào khoảng trống. Cứ mỗi ván bài, nhà cái lại đem ra một
mảnh giấy có ghi một câu thơ thất ngôn tức là có 7 chữ nhưng chỉ viết
ra giấy có 6 chữ thôi còn một chữ để trống và kèm theo 5 chữ thả gồm bốn
chữ do nhà cái tự đặt ra và một chữ đúng trong nguyên văn của câu thơ
để cho nhà con lựa
chọn.
Sau
khi mọi người đã chọn lựa và đặt tiền xong thì nhà cái sẽ cho khui phần
trên đầu mảnh giấy được cuộn tròn cốt che dấu cái chữ chính trong
nguyên văn của câu thơ thả để cho làng biết chữ nào mới là chữ trúng.
Nếu nhà con đặt trúng chữ thì sẽ được chung tiền, bằng như chọn sai sẽ
thua. Vì trò chơi mang tính chất cờ bạc ăn tiền nên nhà cái cần phải sưu
tầm những câu thơ cổ ít ai thuộc hoặc ít ai biết đến thì mới hy vọng ăn
được tiền làng.
Trong một cuộc đánh thơ nọ, ông Phó sứ - nhân
vật làm nhà cái trong truyện - đã dùng một câu thơ được vòng
trống ngay chữ đầu tiên và kèm theo năm chữ thả là: Tái
(cửa ải) - Sơn (núi) - Đình (cái sân) - Mộ (ngôi
mộ) - Văn (tên một con sông chảy qua nước Lỗ, quê của
Khổng phu tử), để cho nhà con lựa chọn. Câu thơ thả là:
"[...] thượng mai khai xuân hựu lão..."
(Hoa mai nở trên [...] xuân lại càng già).
Mọi
người đua nhau đoán chữ và ai cũng lý luận theo sự liên tưởng thông
thường là mai nở thì phải thấy trong cánh rừng, trên ngọn quan ải, trước
sân nhà v.v... thì mới tạo thành thi tứ chứ không ai nghĩ đến chuyện
hoa mai nở trên một ngôi mộ. Chính vì thế mà khách chơi đánh thơ hôm ấy
không một ai chọn chữ
"Mộ" để đặt tiền cả, cho nên khi lá thơ được khui ra thì nhà cái
tủm tỉm cười vơ trọn tiền cả làng, còn các nhà con thì đều ngẩn người ra vì không ngờ thơ phú thế mà cũng lắt léo.
Dĩ
nhiên về phần tôi khi mới đọc đến đoạn làng đang chọn chữ để đánh, tôi
thấy mình cũng có những suy nghĩ rất phù hợp theo sự luận đoán của các
tay con trong cuộc đánh thơ này cho nên khi đọc đến phần kết quả giải
đáp, tôi thấy mình cũng đã hố to trong cách suy đoán rất nông nổi về ý
nghĩa câu thơ này
không khác gì mấy tay chơi thả thơ hôm ấy.
Vì
thấy cả làng đều thua đau nên để làm vui lòng đám tao nhân mặc khách
tham dự cuộc thả thơ, nhà cái đã phải trưng dẫn chứng cớ đấy là câu thơ
được trích từ bài thơ
"Tọa phóng hạc đình" của Từ Dạ, một nhà thơ Trung hoa,
và đã trình cho làng xem nguyên văn hai câu thơ như sau:
Mộ thượng mai khai xuân hựu lão
Đình biên hạc khứ khách không hoàn.
(Hoa mai nở trên nấm mồ xuân lại càng già. Chim hạc đã bay đi khỏi sân thả chim rồi thì khách cũng ra đi không còn quay lại).
Thì ra thế. Có đọc được cả hai vế để hiểu trọn ý nghĩa của câu thơ trên thì mới thấy cái dụng ý của tác giả khi dùng
chữ "Mộ". Và thế là cả làng xúm nhau vào ngâm nga
và khen hay rối rít, nhưng không quên trách cổ nhân dùng chữ quá
ác làm cho các ngài đoán không ra. Riêng tôi thì mặc dù không
hiểu hết chữ Hán và cho tới nay tôi vẫn chưa có cơ hội tìm
hiểu cho ra nhà thơ Từ Dạ sống vào thời đại nào, làm thơ ra
sao, và trọn bài thơ này như thế nào, nhưng vào ngày ấy, hai câu
thơ đó đã gây cho tôi một nỗi xúc động bồi hồi. Rồi cũng vì
suy nghĩ mãi về cái ý nghĩa súc tích hàm ẩn trong những bài thơ
cổ mà tôi đã liên tưởng đến một bài thơ Đường khác cũng
rất nổi tiếng của Thôi Hộ:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
(Năm
ngoái ngày này nơi cửa có một khuôn mặt đẹp đã cùng với hoa đào đua
nhau mà ửng hồng. Nhưng khuôn mặt người ấy nay đâu rồi mà chỉ còn lại có
cành hoa đào vẫn cười với gió đông).
Cứ
theo Tình sử Trung Hoa thì Thôi Hộ sống vào đời nhà Đường, một hôm nhân
dạo chơi xuân bên ngoài thành rồi nhằm lúc khát nước bèn ghé vào một
ngôi nhà có trồng nhiều hoa đào xin nước uống và được một cô gái xinh
đẹp bưng nước ra mời. Cảm nhan sắc người con gái nên năm sau Thôi Hộ lại
tìm đến thì cửa đóng then gài và không thấy bóng người con gái ấy đâu
bèn làm bài thơ trên đề trên cửa rồi ra về. Người con gái sau khi đọc
được bài thơ đó thì sinh lòng nhớ thương rồi ốm mà chết. Thôi Hộ hay tin
vội đến thăm và khi ôm xác người con gái vừa tắt thở mà khóc thì người
con gái bỗng hồi tỉnh lại. Và thế là cha cô gái đã gả người con gái đó
cho Thôi
Hộ.
Dựa
vào thiên tình sử trên, tôi lại tưởng tượng ra một chuyện tình khác từ
hai câu thơ của Từ Dạ về một cuộc gặp gỡ giữa một người khách phương xa
đến dự hội thả chim hạc mùa xuân với một người thiếu nữ nơi đây, rồi khi
người khách ấy lại ra đi thì người thiếu nữ có lẽ cũng vì thương nhớ
chờ mong mà chết.
Tuy
nhiên, nếu như trong thơ của Thôi Hộ, cái cảnh nhìn thấy cành hoa đào
năm cũ vẫn nở hoa như cười với gió đông làm cho sự thương nhớ người xưa
vẫn hãy còn là một cảm giác nhẹ nhàng và tạo cho người đọc còn có một sự
hy vọng nào đó thì trái lại, trong thơ Từ Dạ, hình ảnh gốc mai nơi mộ
người thiếu nữ cứ mỗi mùa xuân về lại nở hoa chỉ có thể được xem như một
chứng tích còn bấu víu lại trên đời để nhắc nhở cho người sống nỗi xót
xa về cái mùa xuân hò hẹn cũ với người nằm dưới mộ lại thêm một lần già
theo năm tháng mà thôi.
Dĩ
nhiên là tôi không biết đây có phải là nguyên nhân đích thực đã cảm
kích nhà thơ Trung hoa nọ để sáng tác ra mấy câu thơ trên hay không,
nhưng cái sự tích tưởng tượng ấy đã làm cho hai cái hình ảnh tương phản
của hoa mai nở và ngôi mộ hoang vắng càng có vẻ liêu trai hơn đối với
tôi và làm cho cái ý tưởng
"xuân lại càng già" trở thành một ấn tượng sâu sắc.
Cái
ý tưởng này càng được tôi cảm nhận thấm thía hơn khi chủ trương tiêu
diệt các thành phần được kể là
"trí, phú, địa, hào" của Việt Minh được đem ra áp
dụng triệt để và tôi cũng đã phải chịu cảnh mất mát luôn
cả những người thân trong gia đình của mình. Chính vì thế mà
sau khi đất nước bị qua phân, dù lại được cái cơ may tiếp
nối cuộc đời học sinh ở Miền Nam, được vui hưởng vài mùa
xuân thanh bình, nhưng cứ mỗi độ xuân về, thấy mọi người nô nức đón
xuân, mừng xuân mà riêng tôi thì chỉ thấy mình lẻ loi khi nhớ đến những
người thân yêu đã khuất, thì cái ý tưởng
"xuân lại càng già" này cũng lại trở về ám ảnh tôi.
Cũng
vì mang nặng cái tâm hồn trĩu nặng cái quá khứ u hoài đó mà tôi thường
hay thích đọc thơ văn có khuynh hướng hoài cổ hoặc những tác phẩm viết
về những hoài niệm và do đó tôi nhận thấy cái ý tưởng
"xuân lại càng già"như là một sự biểu lộ niềm luyến tiếc về một cái gì
đã bị đánh mất trong cuộc đời, hay những hình ảnh đã một thời sinh động
nhưng rồi cũng có ngày phải mai một với thời gian, quả là một ý tưởng
rất phổ biến trong văn học nghệ thuật cũng như bàng bạc trong lòng của
đa số người dân Việt.
Một Nguyễn Bính đã luyến tiếc cho một cuộc tình dang dở chỉ vì nỗi lo
sợ của người con gái e để lỡ mất mùa xuân của mình như ông đã diễn tả
trong bài thơ Cô Lái Đò:
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bên sông kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề
Nhưng rồi người khách tình quân ấy
Đi mãi không về với bến xuân...
Nhưng
sau mấy mùa xuân chờ đợi mỏi mòn mà không thấy người tình quay trở lại,
cô lái đò cũng đã thấy lòng có thể nguôi ngoai đi nỗi nhớ để quên đi
lời hẹn ước cũ mà đành tâm đi lấy chồng kẻo lỡ mất xuân thì, chỉ tội cho
sự thương nhớ ơ hờ của người khách qua đò thầm lặng nào đó thì vẫn
không thể xóa mờ:
Chẳng lẽ ôm cầm chờ đợi mãi
Cô đành lỗi ước với tình quân
Bỏ thuyền,bỏ lái bỏ giòng sông
Cô lái đò kia đi lấy chồng
Vắng bóng cô em từ dạo ấy
Để buồn cho những khách sang sông.
Vũ Đình Liên, cũng đã nhờ sáng tác ra bài thơ
Ông Đồ mà trở thành nổi tiếng:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài...
Với
vai trò một kẻ mang chữ nghĩa thánh hiền ra truyền bá cho đám hậu sinh
để xã hội tiếp tục duy trì được cái nền đạo đức, lễ nghĩa và sự khôn
ngoan của tiền nhân để lại, ông đồ từng là người được xã hội cũ kính
trọng. Nhưng một khi xã hội đã phải thay đổi mới theo thời đại
"vứt bút lông đi, giắt bút chì" thì vai trò của ông đồ cũng không
còn chỗ đứng trong cái cơ cấu tổ chức mới của xã hội đó nên
lớp người như ông đồ sinh ra nhằm lúc cuối mùa này đành
phải xoay ra mang cái tài "hoa tay thảo những nét như phượng
múa rồng bay" ấy để viết câu đối thuê vào dịp xuân về cho một số
người còn duy trì cái tập tục cũ treo câu đối tết ngày xuân. Nhưng cuối
cùng rồi thì theo đúng luật đào thải, ông đồ cũng không còn xuất hiện
trong bức tranh mùa xuân của phố phường
nữa:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay...
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Bài
thơ thật giản dị, và mặc dù tác giả là một nhà giáo của thời đại đã
chuyển sang Tây học nhưng lại biết rung cảm xót xa chân thành trước nỗi
thê lương tàn tạ của một hình ảnh đã hàng ngàn năm tô điểm cho một nếp
sinh hoạt của một xã hội mà nay đành phải mai một theo thời gian nên bài
thơ rất có hồn. Cái hình ảnh ông đồ được mô tả đây không chỉ đơn thuần
là hình ảnh của một con người chỉ xuất hiện trong một thời gian và không
gian nhất định, mà ông đồ đây chính là cái hình ảnh kết tinh của một
nền văn hóa đã tồn tại qua hàng ngàn năm, cho nên đã trở thành một biểu
tượng thân yêu trong ký ức của mỗi người dân đã thấm nhuần cái nền văn
hóa đó.
Có
lẽ cũng vì cái lẽ đó mà về sau này khi Vũ Đình Liên đã đi theo Cộng
sản, thỉnh thoảng vào dịp xuân về cũng mượn lại thể thơ của bài thơ ông
đồ cũ và hình ảnh ông đồ để làm ra những bài thơ ông đồ mới nhằm ca tụng
Đảng và mùa xuân xã hội chủ nghĩa thì những bài thơ này chỉ còn là
gượng ép, giả tạo nên cũng chẳng được mấy ai biết đến.
Chính
cũng vì cái khuynh hướng dễ xúc cảm và dễ xa xót trước những hoàn cảnh
đáng thương hoặc đau khổ của chính mình hay của người khác đó mà khi đất
nước lại tiếp tục phải chứng kiến cái cảnh:
"mùa xuân ấy chàng bước chân đi..." vì chinh chiến thì mỗi khi
xuân về, người dân Việt không phải chỉ đón xuân bằng những bản nhạc xuân
vui tươi, xuân nồng thắm, xuân yêu thương, xuân hy vọng, mà còn có cả
những xuân mong nhớ, xuân đợi chờ, xuân chia cách và bao nhiêu là thứ
xuân đau thương khác nữa mà mọi người phải chấp nhận như là một thực tế
không thể chối bỏ trong cuộc sống.
Sống trong hoàn cảnh chinh chiến thì có ai lạ gì khi mùa xuân đến có những người thiếu phụ ngồi đan áo mà lòng thì:
"Cứ mỗi lần hoa mai vàng trước ngõ, thì em thôi mong nhớ xuân này chàng có về..."
[Đan áo mùa xuân - Phạm Thế Mỹ],
hoặc người mẹ ở quê nhà mong con trong khi con ở ngoài chiến trường xa xôi nhớ về
mẹ:
Con biết bây giờ mẹ chờ trông con
Khi thấy mai vàng nở đầy trong sân
Năm ngoái con hẹn rằng xuân sẽ về...
[Xuân con không về - Nhật Ngân]
Hoặc buồn cô đơn như người lính chiến ở ngoài tiền đồn heo hút lúc xuân về:
":...Đồn anh đóng ven rừng mai. Nếu mai không nở, anh đâu biết xuân về hay chưa..."
[Đồn vắng chiều xuân - Trần Thiện Thanh]
Mỗi
một người đều có những kỷ niệm riêng tư khắc sâu vào tâm khảm, mỗi gia
đình có những thế hệ cha ông đã sống và để lại dấu ấn tinh thần hay vật
chất cho con cháu, cũng như mỗi dân tộc có những nét đặc thù về văn hóa,
những giai đoạn lịch sử đáng ghi nhớ, đáng tự hào hay đáng suy nghĩ.
Tất cả những cái ấy đều đáng qúy vì nó làm cho dòng đời của một chuỗi
lặp đi lặp lại những hiện tượng khách quan trở thành có ý nghĩa cho con
người.
Có
một điều là do cái khuynh hướng thiết tha với những hoài niệm cũ, nhất
là những hoài niệm được coi là tươi đẹp nhất của một giai đoạn lịch sử
hoặc một đời người mà người ta cứ lưu luyến mãi với nó. Trước đây, nếu
sau khi nhà Tây Sơn dứt nhà Lê rồi nhà Nguyễn dứt nhà Tây Sơn để thống
nhất giang sơn về một mối sau một thời gian dài dằng dặc của những
cuộc tranh chấp tương tàn, cái tinh thần hoài Lê vẫn ấp ủ trong lòng
người dân Bắc Hà; thì gần đây, sau gần ba mươi năm từ ngày kết thúc cuộc
chiến tranh Quốc Cộng, người dân Miền Nam vẫn chưa nguôi quên những nỗi
đau thương hoặc những hoài bão chưa hoàn thành của những người đã đóng
góp hay hy sinh cho một lý tưởng mình đã phục vụ, khiến cho lớp người
còn lại của thế hệ trước vẫn thích ôn lại những kỷ niệm cũ.
Tập
tục chung của người dân Việt là khi đón xuân tất nhiên phải nhớ đến ông
bà tổ tiên mình và tin rằng hồn của những người muôn năm cũ vẫn phảng
phất trong hương khói ngày xuân để phù hộ cho con cháu, tuy nhiên người
ta cũng không quên ngày xuân mọi người cũng phải mừng tuổi nhau và cầu
chúc cho nhau qua năm mới sẽ gặp được những điều tốt lành. Nếu đối với
những người mà tuổi đời đã làm cho mùa xuân hôm nay đã trở thành cái
"xuân lại càng già" cho nên chỉ còn biết tiếc nuối những lỡ làng, những
lầm lẫn hay những hoài bão chưa thành, thì điều ấy cũng không có gì đáng
ngạc nhiên, nhưng đối với những người tuổi trẻ đang tràn trề sức sống
để bước vào đời, xin cho mùa xuân đối với họ vẫn cứ là niềm tin và hy
vọng vào tương lai tươi sáng.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment