Kể cũng lạ! Trong số 12 con vật đại biểu của cái chi bộ 12 con giáp nắm giữ vận mệnh của con người trên trần gian này thì hầu hết là những con vật thông thường và quen mặt với con người, duy chỉ có mỗi con rồng là khác lạ hơn cả. Lý do không biết có phải vì lúc xưa, sau khi đã chọn xong 11 con rồi nhìn lại thì thấy toàn là thứ đầu trâu mặt ngựa, chó sủa gà bươi, khỉ dòm nhà, chuột khoét vách v.v… chứ không có mặt mũi nào coi cho ra hồn, nên các cụ mới hoảng lên, bèn quyết định phải bịa ngay ra thêm một con rồng uy linh ghép vào đứng chung và đặt cho cái bí danh là Thìn, hòng mang lại chút uy danh cho cái chi bộ súc vật này. Cũng nhờ thế mà từ đó những người hay tin vào tử vi lý số mới có chuyện so sánh rồi ta thán:
Người ta tuổi Mẹo tuổi Thìn
Riêng tôi vô phúc sinh nhằm tuổi Thân.
Sở dĩ rồng oai nhất đám là vì xưa nay chưa
có ai nhìn thấy rồng bằng xương bằng thịt bao giờ, mà chỉ là cái hình
tượng một con vật được ghép lại theo kiểu cóp nhặt hình ảnh các thành
phần của nhiều con vật khác nhau cho nên tha hồ mà “vẽ rồng vẽ rắn”,
do đó rồng Âu châu không giống rồng châu Á, và rồng bên Tàu khi du nhập
sang ta cũng biến thái đi đôi chút cho phù hợp với nhãn quan hay ước mơ
tưởng tượng của dân tộc mình.
Còn về mặt đức tính của rồng thì cũng là do
con người thêu dệt ra, cho nên nếu dân Âu châu thường coi rồng như một
thứ ác quỷ hiện hình để làm hại người, cần phải trừ khử, thì ngược lại
dân Á châu lại coi rồng như một con vật cao quý đứng hàng đầu trong bộ
tứ linh: long lân quy phụng (rồng, kỳ lân, rùa, chim phượng).
Nói về hình dạng thì rồng Đông phương
thường được vẽ như một con vật có thân hình dài như rắn nhưng trên lưng
có kỳ và mình có vảy như cá chép, còn bốn chân giống chân kỳ đà nhưng có
vuốt như vuốt cọp và móng nhọn như chim ưng. Đầu thì dài như đầu lạc đà,
nhưng lại có sừng như hươu hoặc tê giác, và tai vểnh ra như tai bò. Mắt
thì lồi và rất lớn, lại chiếu ra hào quang sáng quắc. Còn miệng thì rộng
như miệng cá sấu với răng nanh chìa ra ngoài, kèm thêm những sợi râu dài
và cứng. Đặc biệt hơn cả là rồng có thể phun ra lửa hoặc nước và thở ra
khói.
Thủa mới vẽ ra rồng thì các cụ chưa nghĩ
đến chuyện phân loại. Dần dà các cụ mới chia ra nào là rồng lửa, rồng
đất, rồng nước v.v… và còn chế thêm ra rồng đực, rồng cái, rồng con cho
rậm đám, rồi vẽ vời thêm cái đuôi rồng đực với rồng cái cũng khác nhau.
Ðuôi rồng đực thì cuộn lại và cứng như cây côn dùng làm vũ khí khi xung
trận, còn đuôi rồng cái thì lại xòe ra như chiếc quạt, không biết là để
múa hay để làm cái gì khác thì không thấy ai nói đến. Các cụ lại còn vẽ
ra nào là rồng xanh, trắng, đỏ, đen và vàng cho đầy đủ bộ ngũ sắc. Trong
số này, rồng vàng được xem là cao quý nhất nên được dùng để tượng trưng
cho Thiên Tử, tức là vua nước Tàu, vì vua Tàu tự xưng mình là con Trời
để làm vua thiên hạ. Nước ta vì bé nhỏ, ít người, cho nên dân ta dù có
tự hào cách mấy cũng không bao giờ dám tranh xưng là con Trời với Tàu mà
chỉ nhận mình là “con Rồng cháu Tiên” thôi.
Đây cũng là một chuyện lạ nữa vì Rồng với
Tiên vốn không cùng chủng loại, lại khác nhau một trời một vực, làm sao
mà kết hợp với nhau được? Thì ra cũng vì tục truyền rằng vào thời thượng
cổ, vua Kinh Dương Vương xứ Lĩnh Nam nhân dạo chơi Động đình hồ nên đã
gặp Long nữ là con gái của Long vương. Hai người kết hợp với nhau và
sinh ra Sùng Lãm. Khi Sùng Lãm nối ngôi làm vua thì xưng là Lạc Long
Quân và lấy nàng Âu Cơ là tiên, đẻ ra một cái bọc trăm trứng nở thành
trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta vốn
dòng dõi Rồng, còn nàng là Thần Tiên, không thể nào ăn đời ở kiếp với
nhau được. Nay có trăm đứa con thì chi bằng nàng hãy đem 50 đứa lên núi,
còn 50 đứa theo ta xuống biển”. Thế là cuộc chia tay bắt đầu, tạo
thành vụ ly thân điển hình đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Còn dân ta
vốn do cha Rồng mẹ Tiên sinh ra nên từ đó mới xưng mình là giòng giống
Rồng Tiên.
Rồng được dân Á đông kính sợ không những vì
rồng là biểu tượng của Thiên tử mà còn vì sự tin tưởng rằng bốn biển
trong thiên hạ đều do các Long Vương cai quản để làm mưa làm gió, trong
khi dân chúng thì chủ yếu sống nhờ nghề nông cho nên rất cần mưa thuận
gió hòa để mùa màng được tươi tốt. Do đó mỗi khi có hạn hán là họ tin
rằng phải lập đàn cầu đảo để xin các vua rồng đến phun nước làm mưa thì
mới qua khỏi cơn hoạn nạn. Tục ngữ nhà nông ta có câu:
Rồng đen
lấy nước thì nắng,
Rồng trắng lấy nước thì mưa ...
Rồng trắng lấy nước thì mưa ...
Hoặc trong ca dao cũng có câu:
Rồng đen lấy nước được mùa
Rồng trắng lấy nước thì vua đi cày
Rồng trắng lấy nước thì vua đi cày
Rồng đen có nghĩa là khi thấy
ngoài biển khơi có cái hình ảnh như cái “vòi rồng” màu đen xuất hiện thì
đấy là điềm báo hiệu mưa thuận gió hòa, nhà nông sẽ được mùa, còn nếu
như đó là màu trắng thì thời tiết sẽ khô hạn, ruộng đồng nứt nẻ, dân
chúng sẽ bị mất mùa đói kém đến nỗi ngay cả nhà vua cũng phải chạy lo
kiếm sống chứ không thể nào ngồi yên mà hưởng thụ được nữa.
Mặc dù rồng Á Đông không có cánh
như rồng Âu châu nhưng cũng biết bay cho nên tục ngữ ta mới có câu: “rồng
bay phượng múa”, để diễn tả cái tài năng của người nghệ sĩ và nét
đẹp trong nghệ thuật như Vũ Đình Liên, một nhà thơ tiền chiến đã từng
viết trong bài thơ “Ông Đồ”:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay…
Như phượng múa rồng bay…
Nhưng rồng phải gặp mây thì mới
thật sự thi thố được hết tài năng của mình cho nên dân ta mới ví: “Như
cá gặp nước, như rồng gặp mây”. Còn nhà nho Nguyễn Công Trứ của thế
kỷ 19 thì bộc lộ ước nguyện của mình trong bài phú “Kẻ Sĩ”
như sau:
Rồng mây
khi gặp hội ưa duyên,
Ðem quách cả sở tồn làm sở dụng
Ðem quách cả sở tồn làm sở dụng
Như đã nói, rồng là biểu tượng của nhà vua
cho nên tất cả những gì thuộc về vua, từ cung điện, đền đài, lăng tẩm,
vật dụng nội thất cho đến y phục, ấn tín, đều được chạm trổ hay thêu vẽ
hình rồng. Còn về mặt danh xưng thì những gì thuộc về nhà vua hay dành
cho vua dùng thường được kèm thêm chữ “long” (tức là rồng) như
long sàng là giường vua nằm, long án là bàn để cho vua làm
việc, long bào là áo của vua mặc, long thuyền là thuyền để
vua đi, long thể là mình mẩy của vua, long nhan là mặt mũi
của vua v.v… Vua ta tuy biết mình phận nhỏ nhưng nhờ dựa vào cái thế là
con cháu Tiên Rồng nên cũng dùng luôn rồng làm biểu tượng. Tuy nhiên,
dân ta vì muốn bảo tồn tiếng Việt trong sáng của mình, cho nên mới nôm
na hóa những cái tên bằng chữ Hán rắc rối cho trở thành dễ gọi hơn như:
mặt rồng, mình rồng, bệ rồng, thuyền rồng
v.v… Có điều là khi có ai nói tới cái vòi rồng thì xin đừng tưởng
là cái vòi của vua mà đấy chỉ là tên gọi cái vòi xịt nước của xe cứu hỏa
mà thôi.
Vì “long” có nghĩa cao quý như thế
nên các cụ cũng hay dùng chữ này để đặt tên cho con cháu hầu mong chúng
mai sau sẽ thành người cao quý, tài năng như rồng, hay dùng để đặt tên
cho các cảnh trí đẹp đẽ hay hùng vĩ như vịnh Hạ Long ở miền Bắc, sông
Cửu long ở miền Nam, và vô số những địa danh khác trên cả nước, nhưng
cái tên quan trọng nhất và ai cũng biết vì liên quan đến lịch sử dân tộc
chính là Thăng long, kinh đô của nước ta suốt ba triều đại Lý,
Trần, Lê.
Sở dĩ có cái tên Thăng Long (rồng
bay lên) là vì sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc, dân ta lại giành được
quyền tự chủ và mở ra một kỷ nguyên độc lập mới cho nước nhà bắt đầu với
nhà Đinh rồi tiếp đến là nhà Tiền Lê. Hai triều đại này ngắn ngủi nên
việc nước chưa được sửa sang nhiều và kinh đô vẫn đóng tại vùng Hoa lư
thuộc tỉnh Thanh hóa, vốn là miền núi non hiểm trở, từng là căn cứ địa
của những cuộc nổi dậy chống quân xâm lược. Khi vua Lê Long Đĩnh băng hà
thì triều thần tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra nhà Lý. Vua Lý Thái
tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp không tiện mở mang nên mới dời đô ra thành
Đại La ở đất Hà nội bây giờ. Tục truyền rằng khi nhà vua ra đến nơi thì
thấy có con rồng vàng hiện ra và bay lên bèn cho là điềm lành nên hạ chỉ
đổi tên Đại La thành Thăng long. Từ ấy đến nay đã trải qua
một ngàn năm với không biết bao là biến cố thăng trầm còn lưu lại trong
sử sách và những dấu ấn tình cảm còn phảng phất trong thơ văn như bài
thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của bà Huyên Thanh Quan v.v…
Về cái tên Hạ Long (rồng đáp xuống)
thì do truyền thuyết cho rằng thuở khai thiên lập địa có một đàn rồng
trên trời khi bay qua miền Lạc Việt thì thấy một vùng nước trong, cát
trắng rất đẹp bèn rủ nhau xuống tắm nên tạo thành cái vịnh, và hàng ngàn
hòn đảo nhỏ nằm trong vịnh chính là những khúc lưng của đàn rồng nổi lên
trên mặt nước. Còn dòng sông Mékong khi chảy đến địa phận Nam Việt thì
chia ra thành chín nhánh quanh co như chín con “Rồng thiêng uốn khúc”
ôm lấy vùng đồng bằng phì nhiêu của Miền Nam trước khi đổ ra biển Đông
nên được gọi là Cửu Long. Ngoài cách dùng chữ Hán để đặt tên cho
các địa danh hoặc công trình kiến trúc, người ta còn dùng cả cách gọi
nôm na, chẳng hạn như ở Thanh Hóa có cây cầu mang tên Hàm Rồng,
vì cầu được bắc qua hai mỏm núi trông giống như hàm con rồng trên sông
Mã.
Nhắc đến hàm rồng thì tục ngữ có câu: “mả
táng hàm rồng”, dùng ám chỉ sự may mắn do hồng phúc mang lại. Đây là
một vấn đề liên quan đến môn địa lý và phong thủy mà các cụ con Trời
ngày xưa đặt ra để xác định vị trí những thế đất được xem là có chứa “long
mạch” làm nảy sinh anh tài, tương lai vượng phát, sự nghiệp vững bền,
hầu giúp cho vua chúa muốn dựng nghiệp lớn, người giàu có muốn xây cất
cửa nhà, gia đình có người chết muốn an táng hài cốt cha ông v.v… Chính
vì tin đất phương Nam có chứa nhiều long mạch tốt nên ngày xưa các vua
Tàu thường sai mấy thầy địa lý sang nước ta dò tìm cho ra rồi ếm cho
mạch không thể phát được nữa, khiến cho giống dân Lạc Việt không còn
hưng thịnh lên để tranh đua với nước Tàu. Điều này có thật hay không thì
không ai dám cả quyết, chỉ biết rằng lúc sau này nước ta có xảy ra cái
hiện tượng hiếm nhân tài, lại thêm nạn “rồng ở với giun” như câu
tục ngữ vẫn được truyền tụng.
Ngoài ra, dù chẳng biết rồng xương xẩu ra
sao nhưng người ta cũng dùng chữ “long” hoặc “rồng” để đặt
tên cho vài loại cây đầy gai góc mọc trên những vùng đất cát khô cằn là
cây xương rồng, cây lưỡi long, cây thanh long, cây
huyết rồng (một loài cây hiếm quý dùng để làm thuốc), hoặc một số
cây hoa quả thông thường khác như cây đậu rồng, cây long nhãn
(vì quả có hột giống như mắt rồng) và cây hoa móng rồng v.v…
Mặc dù “long” chữ Hán có nghĩa là
rồng hàm ý cao quý nhưng lại đồng âm với “long” trong tiếng nôm
có nghĩa là lỏng ra, sút ra, không còn chắc chắn nữa, như “long lay”
chẳng hạn. Người chăn nuôi thường rất sợ súc vật mắc chứng bệnh “lở
mồm long móng”, còn con người khi bước sang tuổi già thì ai rồi cũng
“đầu bạc răng long”. Tuy nhiên, khi nói “gái không chồng như
phản gỗ long đanh” thì đúng là “ngựa” hết chỗ chê, chứ không
giống cái kiểu ì à ì ạch của mấy ông già “long gân” đâu. Ngoài ra
“long” cũng có nghĩa là làm rung chuyển như khi nói bom đạn nổ “long
trời lở đất”, còn “long đong” thì diễn tả cái ý phải vất vả
mà vẫn không thành công. May mà còn được mỗi một tiếng “long lanh”
như khi nói “đôi mắt long lanh” là nghe ra vẫn có vẻ gợi cảm đáng
yêu mà thôi.
Phải chăng vì chữ Hán sau này không còn linh trong tiếng Việt cho nên mới có mấy cái địa danh như
Bình Long, Phước Long v.v… chỉ gợi lại cho dân ta toàn là
hình ảnh của những ngày chinh chiến, còn Long Bình thì hồi sau 75
đã từng xảy ra vụ nổ kho đạn khủng khiếp đến nỗi làm rung chuyển cả
Sàigòn ở cách xa hàng mấy chục cây số. Riêng về lịch sử thì vào
cuối thế kỷ 18, vua Càn Long bên Tàu lúc ấy cũng đã vào cái tuổi
“long gối”, nhưng nhân lúc nhà Lê ta suy đồi vì nội chiến triền
miên và vua Lê Chiêu Thống phải chạy sang Tàu cầu viện, bèn sai Tôn Sĩ
Nghị đem quân sang viện cớ giúp nhà Lê để hòng xâm chiếm nước ta, cho
nên mới bị vua Quang Trung nước ta đánh cho một trận thua chạy không còn
manh giáp. Không những thế, suýt tí nữa vua Tàu còn bị trúng kế của vua
ta định cầu hôn công chúa để đòi thêm vùng đất Lưỡng Quảng của Tàu làm
món hồi môn, nếu vua ta không đột nhiên ngã bệnh mất sớm.
Trở lại với rồng thì mặc dù tính khí rồng
chưa chắc đã hiền hơn cọp, beo, sư tử vì sách có câu “Long tranh hổ
đấu”, có điều xưa nay chưa có ai trông thấy rồng thật ăn thịt người,
mà chỉ thấy toàn rồng gỗ, rồng đá nằm trơ gan cùng tuế nguyệt, cho nên
mới có chuyện người đòi ăn gan rồng hay muốn mổ bụng rồng thôi. Phải
chăng vì lẽ đó mà dân ta chỉ gọi rồng một cách trống trơn là rồng
hay con rồng chứ không ai gọi rồng bằng ông như người ta
từng gọi ông cọp, ông voi v.v… hoặc đôi khi người ta còn tỏ vẻ
thương hại rồng như câu ca dao:
Rồng vàng
tắm nước ao tù
Người khôn ở với người ngu bực mình.
Người khôn ở với người ngu bực mình.
Không những thế, có khi rồng còn được dùng
để ám chỉ một cách bỡn cợt như trong bài thơ “Giễu người thi đỗ”
của Tú Xương, một nhà Nho bất đắc chí sống vào cuối thế kỷ 19, khi nước
ta mới bắt đầu bị Tây đô hộ và nền Nho học xứ ta đang đi vào giai đoạn
suy tàn:
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng
Vì rồng ngày xưa là biểu tượng của nhà vua
cho nên nghệ thuật chạm trổ và điêu khắc rồng thường chỉ được thể hiện ở
chốn cung đình xoay quanh các đề tài như: Lưỡng long tranh châu (hai
con rồng tranh nhau ngậm viên ngọc), Lưỡng long chầu nguyệt (hai
con rồng chầu mặt trăng) v.v… còn trong dân gian, hình rồng chỉ được
chạm trổ để trang trí cho những nơi linh thiêng như đình chùa miếu mạo.
Tuy nhiên, theo cái đà tiến hóa của lịch sử nhân loại, vua cũng mất dần
uy quyền và cuối cùng là bị truất phế thì rồng cũng mất đi tính cách cấm
kỵ nên hình ảnh rồng đã xuất hiện tràn lan một cách bình dị hơn, từ huy
hiệu của một binh chủng hay một đơn vị quân đội, cho đến logo của một
công ty kinh doanh to tát như hãng Hàng không quốc gia, hoặc chỉ là một
thương hiệu nhỏ như hiệu bánh mứt Bảo Hiên Rồng vàng chẳng hạn. Nói đến
cái logo con rồng chắc nhiều người sống ở Miền Nam thời trước 75 vẫn còn
nhớ là các cô tiếp viên xinh đẹp của Hàng không Việt nam bấy giờ đều mặc
đồng phục áo dài màu thiên thanh có thêu phù hiệu “con rồng bay”
trên cổ áo, làm cho lắm anh chàng dê cụ mê mệt ngắm nhìn rồi ao ước được
hóa mình như rồng mà không được nên cứ ấm ức gọi Air Vietnam bằng cái
tên “E con rồng lộn”, mặc cho ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Nói thì nói vậy, nhưng hình ảnh rồng dù sao
cũng đã đi vào tâm tưởng người dân từ lâu không những qua các câu tục
ngữ biểu lộ sự quý trọng như “Rồng đến nhà tôm”, hoặc ca ngợi tài
năng xuất chúng: “Ăn như rồng cuốn, uống như rồng leo”, mà còn
được dùng để diễn tả khối tình cảm của người bình dân. Kho tàng văn học
dân gian không thiếu gì những câu ca dao trữ tình như:
Rồng giao
đầu, Phụng giao đuôi,
Nay tui hỏi thiệt: Mình thương tui không mình?
Nay tui hỏi thiệt: Mình thương tui không mình?
Hoặc:
Rồng chầu
ngoài Huế,
Ngựa tế Ðồng Nai,
Sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây,
Bao giờ bén rễ xanh cây thì về!..
Ngựa tế Ðồng Nai,
Sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây,
Bao giờ bén rễ xanh cây thì về!..
Rồng cũng là hình ảnh được dùng khi ca ngợi
những mối duyên lành:
Phận gái
lấy được chồng khôn
Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng.”
Xem bằng cá vượt vũ môn hóa rồng.”
Hoặc:
Tình cờ ta
gặp mình đây
Như cá gặp nước, như mây gặp rồng
Như cá gặp nước, như mây gặp rồng
Nhưng cũng có khi chỉ là một điều ước mơ
thật mỏng manh:
Một ngày dựa mạn thuyền rồng
Còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài
Tuy vậy, khi cần trách móc thì người ta
cũng không ngần ngại chê bai:
Rồng nằm
bể cạn phơi râu,
Mấy lời anh nói dấu đầu hở đuôi.
Mấy lời anh nói dấu đầu hở đuôi.
Rồng còn xuất hiện qua những hình thức sinh
hoạt tập thể như múa rồng hoặc trò chơi rồng rắn của trẻ em thôn quê
thời xưa. Trong trò chơi này thì một đứa trẻ đóng vai kẻ săn rồng và một
đứa thủ vai đầu rồng, những đứa còn lại trong bọn thì ôm eo nhau nối
đuôi thành một hàng sau lưng đứa làm đầu rồng. Chúng bắt đầu cuộc chơi
bằng những câu đối đáp như sau:
“Rồng rắn
đi đâu? “Rồng rắn đi
chơi”.
“Cho xin khúc đầu”. “Những xương cùng xẩu”.
“Cho xin khúc giữa”, “Những máu cùng me”
“Cho xin khúc đuôi”. “Tha hồ mà đuổi”.
“Cho xin khúc đầu”. “Những xương cùng xẩu”.
“Cho xin khúc giữa”, “Những máu cùng me”
“Cho xin khúc đuôi”. “Tha hồ mà đuổi”.
Dứt câu này thì đứa bé săn rồng bắt đầu
chạy đuổi quanh rồng để tìm cách chụp lấy cái đuôi, còn đầu rồng thì vừa
nghênh chiến với đứa đi săn, vừa phải bảo vệ sao cho cái đuôi sau lưng
mình không bị đứt lìa ra hoặc bị đứa đi săn vồ. Riêng về môn múa rồng
thì chỉ xuất hiện trong các đám rước, lễ hội lớn và đông đảo nhưng không
phổ biến bằng múa lân.
Kể ra thì rồng chỉ là một con vật tưởng
tượng, nhưng dù sao thì cái hình ảnh con rồng cũng như những đức tính mà
rồng tượng trưng cũng đã gây thành một ấn tượng đậm nét trong đầu óc con
người từ Á sang Âu, cho nên vào thế kỷ 18, khi dân Âu châu vùng lên làm
Cách mạng phá bỏ chế độ phong kiến, thì ở phương Đông các cụ con Trời
vẫn chìm đắm trong cái vẻ thanh bình hàng ngàn năm “Rồng chầu hổ phục”,
đến nỗi Nã Phá Luân, một ông vua mũi lõ ở bên Tây cũng phải gọi Tàu là “con
rồng ngủ” và khuyên dân Âu châu đừng đánh thức con rồng dậy. Nhưng
khi liệt cường rủ nhau xúm vào nổ pháo chia phần xứ Tàu thì các cụ con
Trời cũng tỉnh ra nên quyết hạ bệ “con rồng vàng ngủ mê” để canh
tân đất nước. Cuộc cách mạng chưa đi tới đâu thì đã bị đám con cháu
Thái Dương Thần nữ (nhờ biết canh tân hóa trước một bước nên cũng đã
trở thành hùng cường), nhào vô nện cho một trận thất điên bát đảo, rồi
tiếp theo là cái nạn dịch “Mác Lê” từ bên trời Âu lan truyền qua
cho đám rồng đỏ làm cho đám này đâm ra cuồng mê, chỉ còn biết cầm liềm
búa “cắt mạng” hết những con rồng khác màu cho đến khi cả nước
chỉ còn là một loại rồng đỏ với nhau mà thôi.
Nước ta vốn “sông liền sông núi liền núi”
với nước Tàu, nên vẫn quen cái nếp “Tàu sao ta vậy”. Hơn nữa,
không biết có phải do hậu quả của một ngàn năm Bắc thuộc, có nhiều long
mạch của nước ta đã bị quân Tàu trước đây yểm phá nên sau này đất nước
ta mới sản sinh ra những loài liu điu sống lẫn lộn trong rồng để làm cho
rồng ta ươn hèn đi, cho nên khi Tàu bị Bạch quỷ, Nhật lùn ăn hiếp thì ta
cũng bị Tây mũi lõ đô hộ. Kịp đến khi dân Tàu bị đám rồng đỏ đưa về lại
thời tiền sử thì ta cũng bị đám liu điu học theo rồng đỏ Tàu diệt hết
đám con Rồng cháu Tiên để đem dân tộc ta trở về thời kỳ đồ đá.
Sau mấy thập niên ăn ở theo kiểu thú rừng,
đám rồng đỏ Tàu chợt nhận ra xung quanh mình thiên hạ đều mới đẹp hẳn ra,
nên buộc lòng phải học cách làm ăn phóng khoáng theo đám “tư bản
giãy chết” mà vẫn cứ sống phây phây của Tây phương, nhờ đó mà
rồng đỏ Tàu cũng bắt đầu vươn mình lên với thiên hạ. Đám liu điu xứ ta
học theo rồng Tàu cũng bắt đầu tập nắn lại bộ răng hô cho có vẻ bớt thô
kệch hơn xưa, nhờ thế mà vào cái năm con cọp mới đây, nhân dịp tròn tuổi
“Một ngàn năm Thăng long”, đám này cũng bày trò tổ chức lễ kỷ
niệm ăn mừng thật “hoành tráng”, nhưng khi nhìn kỹ lại thì chỉ
thấy toàn là một thứ bánh tráng “vẽ rồng ra giun” mà thôi.
Rồng Tàu kể
từ khi học lóm được phép luyện cao “hạt nhân” thì không còn thích
nằm yên sau bức Vạn lý trường thành để mơ làm “Đường Minh
hoàng du nguyệt điện” như xưa nữa mà cũng biết vươn móng vuốt ra
quào luôn mấy mảnh đất láng giềng gần như Mông, Tân, Mãn, Tạng về cho
mình thu nguyên liệu để chế biến, khiến cho ngay cả Phật sống cũng hoảng
kinh phải chạy đi tị nạn. Rồi trong năm con Mèo vừa qua, rồng Tàu bỗng
nhiên lại lè ra thêm một cái lưỡi rất lạ mang tên “lưỡi bò” liếm
xuống vùng biển Đông quen thuộc của dân ta, khiến cho đám rồng nhỏ sống
xung quanh vùng biển này cứ nhốn nháo cả lên. Riêng dân ta thì mấy năm
trước đây, kẻ ở núi đã từng bị mấy cái “cột mốc lạ” lấn chiếm làm
cho mình mất chỗ cắm dùi, nay lại thêm kẻ ở biển cũng bị cái “lưỡi bò”
này liếm cho chìm tàu, mất mạng, nhưng có điều lạ là trong khi dân ta
tuy thấp cổ bé họng vẫn còn có kẻ dám la làng phản đối thì trái lại, cái
đám liu điu đang ăn trên ngồi trước ở nước ta không những vẫn tỉnh bơ ca
đi ca lại cái điệp khúc “4 tốt” với “16 chữ vàng” do rồng
Tàu sáng tác mà còn tìm đủ mọi cách bịt mồm bịt miệng đám dân dám la
làng này để cho rồng Tàu không nổi cơn thịnh nộ.
Các cụ xưa
của ta có bảo:
Trứng rồng
lại nở ra rồng
Liu điu lại hóa ra giòng liu điu
Liu điu lại hóa ra giòng liu điu
Nay là năm con rồng trở về, cầu mong sao
cho dân ta đều giữ được cái bản chất con Rồng cháu Tiên của mình
để phân biệt với loài “liu điu” rồi thẳng tay trừ khử hết cái đám
đang “theo đóm ăn tàn” bán nước hại dân này, và tiếp tục truyền
thống hào hùng của cha ông, rủ nhau cùng phình cái bụng rồng ra lấp hẳn
cái “lưỡi bò” của con rồng đỏ tham lam và tàn bạo phương Bắc, hầu
giữ vẹn được bờ cõi và làm vẻ vang cho giống nòi.
ĐOÀN
VĂN KHANH
No comments:
Post a Comment